Châu Á hay Á Châu nằm phần lớn ở bán cầu Bắc, có diện tích lớn nhất trong các châu lục trên thế giới. Thiên nhiên của châu Á rất đa dạng. Diện tích châu lục này bao phủ 8,7% tổng diện tích Trái Đất [hoặc chiếm 29,4% tổng diện tích lục địa].
Sự phân chia các khu vực của châu Á. Bắc Á Trung Á Tây Nam Á Nam Á Đông Á Đông Nam Á
Đông ÁSửa đổiĐông Á bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên và Mông Cổ. Diện tích chừng 11,8 triệu km vuông. Nhân khẩu hơn 1,6 tỉ. Địa thế phía Tây cao phía Đông thấp, chia làm bốn bậc thang. Cao nguyên Thanh Tạng ở phía Tây Nam Trung Quốc gọi là "nóc nhà thế giới", chiều cao cách mặt nước biển trung bình trên 4.000 m. Phía nửa Đông Nam là miền gió mùa, thuộc về đới khí hậu rừng lá rộng ôn đới và đới khí hậu rừng rậm á nhiệt đới; phía Tây Bắc thuộc về đới khí hậu thảo nguyên hoặc sa mạc ôn đới tính lục địa; phía Tây Nam thuộc về đới khí hậu cao nguyên và núi. Từ tháng 5 đến tháng 10 vùng đất phía Đông sát bờ biển bị ảnh hưởng của bão nhiệt đới tây bắc Thái Bình Dương. Tài nguyên khoáng sản phong phú nhất là than đá, sắt, dầu thô, đồng, stibium, tungsten, molypden, vàng, magnesit, than chì. Đông Á là quê hương của nhiều cây trồng như lúa gié, củ mài, lúa tắc, lúa tám đen, đậu nành, cỏ gai, cây trà, tung dầu, cây sơn, quýt hồng, long nhãn, cây vải, nhân sâm. Lúa thóc chiếm trên 40% tổng sản lượng lúa thóc thế giới, lá trà chiếm trên 25% tổng sản lượng thế giới, đậu nành chiếm 20%. Sản lượng sợi bông, đậu phộng, bắp, mía, mè, cải dầu, tơ tằm chiếm địa vị trọng yếu trên thế giới. Tây ÁSửa đổiTây Á cũng gọi là Tây Nam Á, chỉ vùng đất phía tây của châu Á, bao gồm Thổ Nhĩ Kì, Israel, Iran, Iraq, Cộng hòa Síp, Syria, Liban, Jordan, Kuwait, Arabi Saudi, Yemen, Oman, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Qatar, Bahrain, Gruzia, Armenia và Azerbaijan. Diện tích chừng 6 triệu kilômét vuông. Nhân khẩu hơn 300 triệu. Cao nguyên trải rộng, phần phía bắc nhiều mạch núi. Đồng bằng Mesopotamia ở vào khoảng giữa cao nguyên núi ở phía bắc và bán đảo Arabi ở phía nam là do sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rít trùng tích mà hình thành nên. Khí hậu khô khan. Diện tích sa mạc ở phía nam rộng lớn. Vùng đất ven bờ biển Địa Trung Hải và Biển Đen cùng với vùng núi phía tây trong khu vực này thuộc về khí hậu Địa Trung Hải, cao nguyên phía đông và nội lục thuộc về khí hậu thảo nguyên hoặc sa mạc á nhiệt đới, phần lớn vùng đất ở bán đảo Arabi thuộc về khí hậu sa mạc nhiệt đới. Trữ lượng và sản lượng dầu thô chiếm địa vị trọng yếu trên thế giới. Tây Á là chỗ sản sinh bắt nguồn thực vật vun trồng như cà rốt, dưa lưới, hành tây, rau chân vịt, cỏ linh lăng, chà là cùng với các giống gia súc như lạc đà Arabi, ngựa Arabi, dê Angora, thỏ Angora. Đông Nam ÁSửa đổiĐông Nam Á chỉ vùng đất phía đông nam của châu Á, bao gồm các nước và vùng đất như Singapore, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Philippines, Campuchia, Myanmar, Brunei và Đông Timor. Diện tích chừng 4,5 triệu kilômét vuông. Nhân khẩu hơn 650 triệu. Về phương diện địa lí bao gồm hai phần: bán đảo Ấn - Trung và quần đảo Mã Lai. Là một trong các vùng đất có núi lửa nhiều nhất trên thế giới. Phía nam vùng quần đảo và bán đảo thuộc về khí hậu rừng mưa nhiệt đới, vùng núi phía bắc bán đảo thuộc về khí hậu rừng rậm á nhiệt đới. Lấy thiếc, dầu thô, khí thiên nhiên, than đá, niccolum, quặng bô-xít, tungsten, crôm, vàng, v.v làm khoáng vật trọng yếu. Đông Nam Á là nơi bắt nguồn nhiều thực vật nhiệt đới như cây chanh tây, cây đay vàng, cây đinh hương, đậu khấu, hồ tiêu, chuối rừng, cây cau, cây mít, cây chuối sợi đay [còn gọi cây đay Manila], sản xuất dồi dào gạo, cao su, hương liệu, gỗ tếch, cây bông thân gỗ, thuốc quinin, trái cây nhiệt đới. Trong các nước, Indonesia là nước có núi lửa nhiều nhất trên thế giới, có danh hiệu "đất nước núi lửa". Trung ÁSửa đổiTrung Á chỉ vùng đất ở giữa của châu Á. Bao gồm Turkmenistan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Kazakhstan. Vùng đất phía đông nam trong khu vực này là vùng núi, động đất nhiều lần, thuộc về khí hậu núi; các vùng đất còn lại là đồng bằng, gò đồi, sa mạc trải rộng, khí hậu khô cạn, thuộc về khí hậu sa mạc hoặc thảo nguyên nhiệt đới và á nhiệt đới. Lấy khí thiên nhiên, dầu thô, than đá, đồng, chì, kẽm, thuỷ ngân, lưu huỳnh, mirabilit [tức natri xunphát ngậm nước] làm khoáng vật khá trọng yếu. Tài nguyên khoáng sản của Trung Á vô cùng phong phú, ngành công nghiệp quân sự phát đạt. Trung Á là chỗ sản sinh bắt nguồn thực vật vun trồng như đậu Hà Lan, đậu tằm, trái táo tây cùng với cừu Karakul. Sản xuất cây bông sợi, cây thuốc lá, tơ tằm, lông cừu, cây nho và cây táo tây. Nam ÁSửa đổiNam Á chỉ vùng đất phía nam của châu Á, gồm Ấn Độ, Afghanistan, Maldives, Bhutan, Sri Lanka, Pakistan, Bangladesh và Nepal. Diện tích chừng 5,1 triệu kilômét vuông. Nhân khẩu 1,8 tỉ. Vùng đất phía bắc trong khu vực này là vùng núi của chân núi phía nam mạch núi Himalaya, bán đảo Ấn Độ ở phía nam là cao nguyên Deccan, giữa vùng núi phía bắc và cao nguyên Deccan là đồng bằng sông Ấn Độ - sông Hằng. Đồng bằng ở phía bắc và ở giữa về cơ bản thuộc về khí hậu rừng rậm á nhiệt đới, cao nguyên Deccan và phía bắc Sri Lanka thuộc về khí hậu thảo nguyên nhiệt đới, đoạn tây nam của bán đảo Ấn Độ, phía nam Sri Lanka và toàn bộ Maldives thuộc về khí hậu rừng mưa nhiệt đới, đồng bằng sông Ấn Độ thuộc về khí hậu thảo nguyên hoặc sa mạc á nhiệt đới. Lấy sắt, mangan, than đá làm tài nguyên khoáng sản phong phú nhất. Nam Á là chỗ sản sinh bắt nguồn thực vật vun trồng như xoài, thầu dầu, cà tím, chuối rừng, cây mía và củ sen. Cây đay vàng [Corchorus capsularis L] và lá trà chiếm chừng 1/2 tổng sản lượng thế giới. Sản lượng của gạo, đậu phộng, mè, cải dầu, mía, bông sợi, cao su, lúa tẻ hột nhỏ, dừa sấy khô chiếm địa vị trọng yêu trên thế giới. Bắc ÁSửa đổiBắc Á chỉ vùng đất Siberia của nước Nga phần châu Á. Vùng đất phía tây là đồng bằng Tây Siberia, phía giữa là vùng núi và cao nguyên Trung Siberia, phía đông là vùng núi Viễn Đông. Vòng cực về phía bắc thuộc về khí hậu đồng rêu hàn đới, vùng đất còn lại thuộc về khí hậu rừng lá kim ôn đới. Khoảng thời gian dòng sông đông lại thành băng là từ 6 tháng trở lên. Lấy dầu thô, than đá, đồng, vàng, đá kim cương làm khoáng vật khá trọng yếu; sản xuất các loại lúa tẻ, khoai tây, cây lanh và vật liệu gỗ. Địa lí học môi trườngSửa đổiĐịa hìnhSửa đổiBản đồ địa hình châu Á. Địa thế châu Á lên xuống rất lớn, khoảng giữa cao, bốn phía chung quanh thấp. Vùng đất phía đông có một dãy quần đảo hình vòng cung nhiều kiểu khác nhau dài từ nam đến bắc. Chiều cao cách mặt phẳng nước biển trung bình chừng 950 mét, là một châu lục có địa thế cao nhất trên thế giới trừ châu Nam Cực ra. Núi, cao nguyên, gò đồi chiếm chừng 3/4 tổng diện tích, trong đó có 1/3 khu vực chiều cao cách mặt phẳng biển trên 1000 mét. Đỉnh núi cao trên 8.000 mét so với mặt phẳng biển trên thế thế giới, tất cả phân bố ở khu vực mạch núi Karakoram và mạch núi Himalaya. Đồng bằng chiếm 1/4 tổng diện tích, ước tính hơn 10 triệu kilômét vuông. Cả châu Á về tổng quát lấy cao nguyên Pamir làm trung tâm, một loạt mạch núi cao lớn toả ra hướng về phía tây và kéo dài đến cạnh ven đất liền. Chủ yếu có mạch núi Thiên Sơn, mạch núi Côn Luân, mạch núi Himalaya, mạch núi Altai, mạch núi Hindu Kush, mạch núi En-bớc-gi, mạch núi Tâu-rớt, mạch núi Gia-gơ-rốt, v.v Giữa các mạch núi chủ cán kể trên có cao nguyên Thanh Tạng, cao nguyên Mông Cổ, cao nguyên Iran, cao nguyên Anatolia [hoặc gọi cao nguyên Thổ Nhĩ Kì], cao nguyên Deccan, cao nguyên Arabi, cao nguyên Trung Siberia và bồn địa Tarim, bồn địa Junggar, bồn địa Qaidam, v.v Ở mặt bên ngoài của núi và cao nguyên phân bố đồng bằng diện tích rộng lớn, chủ yếu có đồng bằng Đông Bắc, đồng bằng Hoa Bắc, đồng bằng trung và hạ du Trường Giang, đồng bằng sông Ấn Độ - sông Hằng, đồng bằng Mesopotamia [hoặc gọi đồng bằng Lưỡng Hà], đồng bằng Tây Siberia. Châu Á không những lên xuống hai đầu trên đất liền, lại còn quần đảo hình vòng cung ở rìa phía đông đất liền và bộ phận đáy biển ở Thái Bình Dương cũng đồng dạng xuất hiện lên xuống hai đầu, mạch núi trên quần đảo tồn tại xen kẽ theo cùng với rãnh đại dương sâu nhất. Chênh lệch cao thấp của đỉnh núi cao nhất châu Á và rãnh đại dương sâu nhất ở vùng biển lân cận chừng 20 kilômét. Trung tâmSửa đổiTrung tâm địa lí đất liền châu Á chính là chỉ một điểm ở bên trong phạm vi đất liền châu Á ở vào vị trí cân bằng, nó cách đường bờ biển vây chung quanh đất liền xa nhất, có tính đất liền mạnh nhất. Căn cứ vào cách nói của Trung Quốc, vị trí của nó ở vào thôn Vĩnh Tân, xã Vĩnh Phong, huyện Ô Lỗ Mộc Tề, thành phố Ô Lỗ Mộc Tề, khu tự trị Tân Cương, toạ độ địa lí là 43°4052B 87°1952Đ / 43,68111°B 87,33111°Đ / 43.68111; 87.33111, bây giờ đã xây dựng thành khu danh thắng phong cảnh. Một mặt khác, trung tâm của châu Á mà Nga tuyên bố ở vào khu Tos-Bulak, thủ phủ Kyzyl, nước cộng hoà Tuva, Liên bang Nga, toạ độ địa lí là 51°4329B 94°2637Đ / 51,72472°B 94,44361°Đ / 51.72472; 94.44361. Môi trường tự nhiênSửa đổiĐường bờ biển đất liền của châu Á dài liên tục không đứt nhưng mà quanh co uốn khúc, đường bờ biển dài 62.800 kilômét [39.022 dặm Anh], là châu lục có đường bờ biển dài nhất trên thế giới. Loại hình bờ biển phức tạp. Có nhiều bán đảo và đảo cồn, là châu lục có diện tích bán đảo lớn nhất. Bán đảo Arabi là bán đảo lớn nhất thế giới [diện tích chừng 3 triệu kilômét vuông]. Đặc điểm của tổng địa hình châu Á là mặt đất lên xuống rất lớn, núi cao đỉnh lớn tụ tập ở khoảng giữa, núi, cao nguyên và gò đồi chiếm chừng 3/4 diện tích cả châu Á. Cả châu Á cách mặt phẳng nước biển trung bình 950 mét, là châu lục có địa thế cao nhất trên thế giới trừ châu Nam Cực ra. Cả châu Á về tổng quát lấy cao nguyên Pamir làm trung tâm, một loạt mạch núi cao lớn duỗi ra hướng về phía tây, mạch núi cao lớn nhất chính là mạch núi Himalaya. Giữa các mạnh núi cao lớn có rất nhiều cao nguyên và bồn địa diện tích rộng lớn. Ở mặt bên ngoài của núi và cao nguyên vẫn phân bố đồng bằng rộng xa. Châu Á có rất nhiều đỉnh núi cao nổi tiếng, trong đó có đỉnh núi Chomolungma cao nhất thế giới, chiều cao cách mặt phẳng nước biển 8.848 mét, sẽ theo xu thế dần dần lên cao từng bước một, dự tính một trăm năm sau, chiều cao của đỉnh núi Chomolungma sẽ sáng lập lại một di tích lịch sử mới. Châu Á có đất trũng, sụt lún và hồ chằm thấp nhất trên lục địa của thế giới, thí dụ sụt lún Biển Chết [mặt hồ thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải 392 mét], vẫn có cao nguyên Thanh Tạng được gọi là "nóc nhà thế giới". Châu Á là châu lục có núi lửa nhiều nhất trên thế giới. Quần đảo ở ven rìa phía đông là khu vực có núi lửa nhiều nhất trên thế giới. Đảo lớn và đảo cồn đi sát bờ biển phía đông hoặc vùng đất Trung Á và phía bắc Tây Á động đất dồn dập. Rất nhiều sông cả ở châu Á bắt nguồn từ núi ở khoảng giữa đất liền, lần lượt chia làm sông đổ vào Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương. Bồn địa nội lưu chủ yếu phân bố ở vùng đất trung và tây châu Á. Dòng sông dài nhất châu Á là Trường Giang, dài 6.397 kilômét; đứng hạng sau nó là Hoàng Hà, dài 5.464 kilômét; ngoài ra, có sông Mê Kông dài 4.500 kilômét. Sông nội lục dài nhất là sông Amu dài 2.620 kilômét, đứng hạng sau nó là sông Tarim, dài 2.030 kilômét. Hồ Baikal là hồ nước ngọt lớn nhất châu Á và là hồ chằm sâu nhất thế giới. Đảo và đảo cồn của châu Á chủ yếu tập trung ở mặt biển đông nam. Ước chừng có mấy chục ngàn đảo và đảo cồn lớn nhỏ, tổng diện tích là 3,2 triệu kilômét vuông, trong đó có 6 đảo lớn diện tích vượt qua 100.000 kilômét vuông [thí dụ đảo Kalimantan, đảo Sumatra, đảo New Guinea, đảo Sulawesi, đảo Java và đảo Honshu]. Châu Á là châu lục mà sông cả tập hợp nhiều nhất trên thế giới, có hơn 58 dòng sông có chiều dài trên 1.000 kilômét, trong đó có 4 dòng sông trên 4.000 kilômét Trường Giang, Hoàng Hà, Mê Kông, Y-rơ-tích. Dòng sông bắt nguồn từ núi và cao nguyên của phần phía giữa châu Á, có hình dạng toả ra chảy hướng về biển và đại dương. Khí hậuSửa đổiĐất liền châu Á vượt qua 3 miền khí hậu nhiệt đới, ôn đới, hàn đới. Đặc trưng chủ yếu của khí hậu là các loại hình khí hậu đa dạng phức tạp, có khí hậu gió mùa điển hình và tính lục địa rõ rệt. Phía nửa đông nam của Đông Á là miền gió mùa á nhiệt đới và ôn đới ẩm ướt, Đông Nam Á và Nam Á là miền gió mùa nhiệt đới ẩm ướt. Trung Á, Tây Á và Đông Á nội lục là vùng đất khô cạn. Khoảng giữa miền gió mùa ẩm ướt trở lên và miền khô hạn nội lục cùng với phần lớn Bắc Á là vùng đất nửa ẩm ướt nửa khô cạn. Nhiệt độ không khí mùa đông của phần lớn vùng đất châu Á rất thấp, vùng đất có nhiệt độ không khí trung bình dưới 0 vào tháng lạnh nhất chiếm 2/3 diện tích toàn châu Á. Thị trấn Verkhoyansk và thị trấn Oymyakon, nhiệt độ không khí trung bình vào tháng 1 thấp đến dưới -50. Nhiệt độ không khí thấp nhất vô cùng của thị trấn Oymyakon từng thấp đến -71, là địa phương có nhiệt độ thấp nhất ở Bắc Bán cầu, được gọi là vùng lạnh vô cùng ở Bắc Bán cầu. Mùa hè phổ biến gia tăng nhiệt độ, nhiệt độ không khí trung bình vào tháng nóng nhất trừ vùng đất đi sát bờ Bắc Băng Dương có nhiệt độ dưới 10 ra, vùng đất còn lại tất cả đều ở giữa 10 đến 15. Vùng đất trên 20 chiếm chừng 50% diện tích cả châu Á. Nhiệt độ không khí cao nhất của thành phố Basra, Iraq từng đến 58,8, là địa phương nóng nhất thế giới. Sự phân bố giáng thuỷ của mỗi khu vực chênh lệch rất nhiều, xu thế chính là giảm lần lượt từ phía đông nam ẩm ướt lên phía tây bắc khô khan. Chỗ sát gần xích đạo mưa nhiều cả năm, lượng giáng thuỷ hằng năm trên 2.000 milimét. Thị trấn Cherrapunji ở phía đông bắc Ấn Độ có lượng giáng thuỷ trung bình hằng năm cao đến 11.430 milimét, là một trong các khu vực có mưa xuống nhiều nhất trên thế giới. Tây Nam Á và Trung Á là vùng mưa ít suốt năm, lượng giáng thuỷ hằng năm của vùng đất rộng lớn này là từ 150 đến 200 milimét trở xuống. Giữa tháng 9 và 10, trên bầu trời của cao nguyên Mông Cổ và Siberia thường hay có không khí lạnh mãnh liệt đi đến phía nam, phần lớn vùng đất Đông Á dễ bị xâm nhập bất ngờ. Bão đài phong [tức bão typhoon] phát sinh ở phía tây Trung Thái Bình Dương cuốn đánh bất ngờ vùng đất đi sát bờ biển phía đông Đông Á và Đông Nam Á từ tháng 5 đến tháng 10; bão xoáy thuận [tức bão cyclone] phát sinh ở vịnh Bengal cuốn đánh bất ngờ vùng đất đi sát bờ biển vịnh Bengal. Thường hay hình thành tai hoạ nghiêm trọng.[10] Hệ thống sôngSửa đổiChâu Á có rất nhiều sông cả, phần lớn bắt nguồn ở khu vực núi cao khoảng giữa, có hình dạng toả lan tuôn chảy hướng về bốn phía. Dòng sông chảy vào Thái Bình Dương có A-mu-rơ [cửa sông ở vào eo biển Nevelskoy], Hoàng Hà, Trường Giang, Châu Giang, Mê Kông; dòng sông chảy vào Ấn Độ Dương có sông Ấn Độ, sông Hằng, sông Thanlwin, sông Ayeyarwady, sông Ti-gơ-rít, sông Ơ-phơ-rát; dòng sông chảy vào Bắc Băng Dương có sông Ô-bi, sông Ơ-ni-xây, sông Lê-na. Sông nội lục chủ yếu phân bố ở khu vực khô cạn phía trung và tây châu Á, có sông Xi-rơ, sông A-mu, sông Y-li, sông Ta-rim, sông Jordan. Thác nước có chiều cao nước rơi cách mặt sông lớn nhất châu Á là thác nước Jog trên sông Sharavati ở ven biển phía tây nam Ấn Độ, chiều cao nước rơi cách mặt sông là 253 mét. Hồ chằm ở châu Á không quá nhiều so với châu lục khác, nhưng mà không ít hồ chằm có sẵn đặc sắc, nổi tiếng thế giới. Thí dụ biển Caspi - hồ ngăn cách châu Á và châu Âu, là hồ lớn thứ nhất thế giới đồng thời là hồ nước mặn lớn nhất thế giới; hồ Baikal là hồ sâu nhất trên thế giới và là hồ nước ngọt lớn nhất châu Á; biển Chết là chỗ trũng thấp nhất trên thế giới; hồ Balkhash là một hồ nội lục tồn tại đồng thời nước ngọt và nước mặn. Hồ chằm ở châu Á phân bố khá rộng, về cơ bản có thể chia ra 5 nhóm hồ lớn ở Bắc Á, Trung Á, Tây Á, cao nguyên Thanh Tạng và đồng bằng trung và hạ du Trường Giang. Sông ở châu Á phần lớn bắt nguồn từ đất đồi núi ở khoảng giữa đến đổ vào Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương. Trong đó có 7 sông dài trên 4.000 kilômét, dòng sông dài nhất là Trường Giang, sau nó là sông Obi mà lấy sông Y-rơ-tích làm nguồn. biển Caspi là hồ chằm lớn nhất trên thế giới, hồ Baikal là hồ nước ngọt lớn nhất châu Á, cũng là hồ sâu nhất và xưa nhất thế giới, chỗ thấp nhất của hồ ở vào 1.295 mét từ mức mặt biển về phía dưới. Sông A-mu dài cả thảy 2.540 kilômét, là sông nội lục dài nhất châu Á. Sông Ti-gơ-rít, sông Ơ-phơ-rát, Hoàng Hà và lưu vực sông Ấn Độ đều là chỗ bắt nguồn văn minh sớm nhất của loài người. Sông Hằng là sông thiêng liêng của Ấn Độ giáo và Phật giáo. Sông Mê Kông là một dòng sông mang tính quốc tế trọng yếu, các nước trong lưu vực sông Mê Kông bao gồm Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam.[10] Tài nguyên tự nhiênSửa đổiTài nguyên khoáng sản: chủng loại khoáng sản ở châu Á nhiều, trữ lượng lớn, chủ yếu có dầu thô, than đá, sắt, thiếc, tungsten, stibium, đồng, chì, kẽm, mangan, niccolum, molypden, magnesium, crôm, vàng, bạc, halít, lưu huỳnh, đá quý, v.v Trong đó trữ lượng của dầu thô, magnesium, sắt và thiếc cùng giữ vị trí đầu trong các châu lục. Rừng rậm và thảo nguyên: tổng diện tích rừng ở châu Á chiếm chừng 13% tổng diện tích rừng thế giới. Hơn 2/3 gỗ rừng đã được khai phá và sử dụng. Rừng nhân tạo có sự phát triển nhất định. Phần Nga châu Á, phía đông bắc Trung Quốc và phía bắc Triều Tiên là vùng đất rừng lá kim phân bố rộng lớn trên thế giới, lượng tích tụ phong phú, sử dụng rất nhiều loại cây gỗ quý hiếm. Thực vật ở vùng Hoa Nam và phía tây nam Trung Quốc, sườn phía nam vùng núi Nhật Bản cùng với sườn phía nam của mạch núi Himalaya vô cùng phong phú, trừ cây lá rộng phổ biến ra, lại có cây kè, cọ xẻ, cây sam và cây thuỷ sam. Rừng rậm nhiệt đới ở Đông Nam Á chiếm địa vị trọng yếu trong rừng rậm thế giới, nổi tiếng với một dãy quần xã thực vật lâu đời và phong phú. Giống cây chủ yếu của nó có họ Dầu, lại có các "hoá thạch sống" như cây sa la, cây ngân hạnh và cây tô thiết. Tổng diện tích thảo nguyên châu Á chiếm chừng 15% tổng diện tích thảo nguyên thế giới.[11] Sức nước: tài nguyên năng lượng nước mà các nước châu Á khai phá được ước tính hằng năm có thể phát lượng điện đến 2,6 nghìn tỉ kilôoát giờ, chiếm 27% lượng tài nguyên năng lượng nước khai phá được của thế giới. Ngư nghiệp hải dương: diện tích ngư trường duyên hải châu Á chiếm chừng 40% tổng diện tích ngư trường duyên hải thế giới. Sản xuất nhiều cá hồi Đại Tây Dương, cá hồi chấm Thổ Nhĩ Kì, cá tuyết, cá ngừ vằn, cá thinh bụng trắng, cá lù đù vàng nhỏ, cá lù đù vàng lớn, cá hố, mực nang, cá sardine, cá ngừ vây vàng, cá thu Nhật Bản và cá voi, ngư trường nổi tiếng có ở vùng biển sát gần các đảo như quần đảo Chu San, đảo Đài Loan, quần đảo Hoàng Sa, đảo Hokkaidō, đảo Kyushu cùng với biển O-khót-xke.[10] Kinh tếSửa đổiBài chính: Kinh tế châu Á Singapore có một trong những cảng bận rộn nhất trên thế giới và là trung tâm giao dịch ngoại hối lớn thứ tư thế giới.. Châu Á là khu vực có GDP danh nghĩa lớn nhất trên thế giới, đồng thời cũng lớn nhất khi tính theo sức mua tương đương [PPP].
Những nền kinh tế lớn nhất ở khu vực châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc và Nga.
Vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ đã phát triển vượt bậc, cả hai có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm trên 8%. Các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao các năm gần đây ở châu Á bao gồm: Israel,Malaysia,Indonesia,Bangladesh,Pakistan,Thái Lan,Việt Nam,Mông Cổ,Uzbekistan,Síp, Philippines, cácnước giàu khoáng sản như Kazakhstan,Turkmenistan,Iran,Brunei,Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất,Qatar,Kuwait,Ả Rập Xê Út,BahrainvàOman. Vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, GDP của Nhật Bản đã vươn lên đứng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Mỹ. Năm 1995, nền kinh tế Nhật Bản đã suýt đuổi kịp với Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế lớn nhất trong thế giới trong một ngày, sau khi đồng tiền Nhật Bản đạt mức cao kỷ lục 79 yên / USD. Trong khi đó từ thập niên 1980 Kinh tế Trung Quốc đã có sự lột xác ngoạn mục sau những cải cách của Đặng Tiểu Bình, và sang thế kỷ 21 GDP của Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới. 4 quốc gia Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore cũng đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong giai đoạn cuối thế kỷ 20, do đó những nền kinh tế này còn được mệnh danh là Bốn con hổ châu Á. Israel cũng là một quốc gia có nền kinh tế phát triển nhờ tinh thần kinh doanh dựa trên một nền công nghiệp đa dạng. Một số quốc gia Trung Đông như Ả Rập Saudi, Qatar, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Bahrain, Kuwait, và Oman hay Brunei ở Đông Nam Á dù chưa phải là những nền kinh tế phát triển, song vẫn là những quốc gia có mức sống cao nhờ nguồn tài nguyên dầu mỏ dồi dào. Theo dự đoán của các chuyên gia thì GDP danh nghĩa của Ấn Độ sẽ vượt Nhật Bản vào năm 2025 để trở thành nền kinh tế thứ 3 thế giới. Đến năm 2030, nền kinh tế Trung Quốc tính theo GDP sẽ xấp xỉ với Mỹ, và đạt tới mức tương đương về tốc độ tăng trưởng của kinh tế Mỹ. Tuy vậy, thu nhập bình quân đầu người vẫn thấp hơn Mỹ. Các khối thương mại:
Các nguồn tài nguyên thiên nhiênSửa đổiChâu Á theo ranh giới là lục địa lớn nhất thế giới và nó rất giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên, như dầu mỏ và sắt. Hoa ở vùng ôn đới của châu Á Với năng suất cao trong nông nghiệp, đặc biệt là trong sản xuất lúa gạo, đã cho phép mật độ dân số cao của các quốc gia trong các khu vực nóng ẩm. Các sản phẩm nông nghiệp chính còn có lúa mì và thịt gà. Lâm nghiệp cũng phát triển trong phạm vi rộng của châu Á, ngoại trừ khu vực Trung và Tây Nam Á. Nghề cá là một nguồn chủ yếu cung cấp thực phẩm ở châu Á, cụ thể là ở Nhật Bản. Công nghiệpSửa đổiSản xuất công nghiệp ở châu Á theo truyền thống là mạnh nhất ở khu vực Đông và Đông Nam Á, cụ thể là ở Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore. Các ngành nghề công nghiệp dao động từ sản xuất các mặt hàng rẻ tiền như đồ chơi tới các mặt hàng công nghệ cao như máy tính và ô tô. Nhiều công ty ở châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản có các sự hợp tác đáng kể ở châu Á đang phát triển để tận dụng các lợi thế so sánh về sức lao động rẻ tiền. Một trong các lĩnh vực chính của sản xuất công nghiệp ở châu Á là công nghiệp may mặc. Phần lớn việc cung cấp quần áo và giày dép hiện nay của thế giới có nguồn gốc từ Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á. Tài chính và các dịch vụ khácSửa đổiChâu Á có 3 trung tâm tài chính lớn. Chúng nằm ở Hồng Kông, Singapore và Tokyo. Các trung tâm mới nổi ở Ấn Độ hay Trung Quốc là do sự kinh tế về sản xuất công nghiệp theo hình thức gia công ở các quốc gia này cũng như sự có được của nhiều người trẻ có học vấn cao và nói tiếng Anh Các quốc gia và vùng lãnh thổSửa đổi
Dân số châu Á trong tương laiSửa đổiBài chi tiết: Nhân khẩu Châu Á
Nguồn: World Population Review
Các vùng lãnh thổ khácSửa đổi
Tên các nước thuộc Châu Á theo vần AnphabetSửa đổi
Văn hoáSửa đổiBởi vì vùng đất khu vực châu Á rộng lớn, dân tộc đông nhiều, tính đa dạng của văn hoá rất mạnh, độ sai biệt rất lớn, cho nên gần như không có "văn hoá châu Á" thống nhất. Tất cả tôn giáo mang tính thế giới đều sản sinh ở châu Á, như Cơ Đốc giáo, Phật giáo, Hồi giáo và Ấn Độ giáo. Trước khi mở đầu Cách mạng công nghiệp vào thế kỉ XVIII, bởi vì trung tâm kinh tế của thế giới ở châu Á, cho nên phần lớn thành tựu kĩ thuật của loài người đều sản sinh ở châu Á. Đầu năm 3000 trước Công nguyên, người châu Á đã phát minh kĩ thuật đốt nung đồ gốm và đúc rèn quặng, người Sumer ở châu Á đã phát minh đầu tiên công trình tưới nước bằng văn tự và có hệ thống, dân tộc du mục ở Trung Á đã phát minh yên ngựa, dây cương ngựa và bánh xe, người Trung Quốc đã phát minh đồ sứ, bàn đạp ngựa, thuốc súng, la bàn, kĩ thuật làm giấy và kĩ thuật in ấn, đồng thời trồng trọt lúa gié sớm nhất. Người Ấn Độ và người Arabi đã phát minh kĩ thuật tính toán hệ thập phân. Các loại kĩ thuật y dược mang tính địa phương ở châu Á dù cho đến ngày nay cũng vô cùng hữu hiệu, vẫn sử dụng ở rất nhiều khu vực. Rất nhiều nhạc cụ ở phương tây và phương đông là có cùng một nguồn gốc, cho nên giống nhau vô cùng, thí dụ như vĩ cầm và nhị hồ [đàn nhị], guitar và đàn tì bà, ô-boa và suona, sáo phương đông và phương tây gần giống nhau. Thực ra những nhạc cụ này đa số đều là bắt nguồn ở vùng đất Trung Đông. Văn hoá của các dân tộc châu Á như Trung Quốc, Arabi và Ấn Độ có ảnh hưởng cực kì to lớn đối với văn hoá thế giới. Tôn giáoSửa đổiChâu Á là chỗ khởi nguyên của các tôn giáo lớn.
Ngôn ngữSửa đổiNgôn ngữ châu Á chia ra thuộc về ngữ hệ Hán - Tạng, ngữ hệ Nam Á, ngữ hệ Altai, ngữ hệ Nam Đảo, ngữ hệ Dravida, ngữ hệ Á - Phi và ngữ hệ Ấn - Âu. Thể thaoSửa đổiĐại hội Thể thao châu Á, gọi tắt Á vận hội, là đại hội thể thao mang tính tổng hợp có quy mô lớn nhất và tiêu chuẩn cao nhất ở vùng đất châu Á, đại biểu tiêu chuẩn thể dục thể thao của cả châu Á, nó là đại hội thể thao tổng hợp quy mô to lớn mang tính khu vực được Uỷ ban Olympic Quốc tế thừa nhận. Do Hội đồng Olympic châu Á phụ trách công việc, mỗi bốn năm một kì. Tiền thân của nó là Đại hội Thể thao Viễn Đông và Đại hội Thể thao Tây Á. Đại hội Thể thao châu Á kì thứ nhất lúc đầu dự định cử hành ở New Delhi, Ấn Độ vào tháng 02 năm 1949, do các nguyên nhân trù bị của nước chủ nhà nên kéo dài đến năm 1951 cử hành. Sự bất ổnSửa đổiTranh chấp lãnh thổ và chủ quyềnSửa đổi
Ly khai và đảo chínhSửa đổi
Xung đột biên giớiSửa đổi
Chú thíchSửa đổi
Tài liệu tham khảoSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
Video liên quanChủ Đề |