Sản xuất số lượng giá cả hàng hóa đó yếu tố nào quyết định

Nhận định sau đây đúng hay sai:

“Giá cả hàng hóa là biểu hiện của số lượng lao động xã hội đã hao phí để sản xuất ra hàng  hóa đó”

Trả lời:

Nhận định trên: SAI.

Bởi vì giá cả hàng hóa là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, mà giá trị được thể hiện  bằng sức lao động, hao phí lao động xã hội. Nói cách khác, giá cả là biểu hiện của sức lao động xã hội đã hao phí để sản xuất hàng hóa đó.

Giá cả hàng hóa hình thành và vận động chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố sau đây:

– Giá trị của hàng hóa: đây là yếu tố quyết định nhất đến giá cả hàng hóa. Giá trị của hàng hóa chịu sự tác động bởi năng suất lao động và mức độ phức tạp của lao động. Nói dễ hiểu là một hàng hóa được làm ra mất nhiều thời gian, công sức lao động thì nó giá cả hàng hóa càng cao.

– Giá trị sử dụng của hàng hóa: tức là công dụng của hàng hóa.

– Tiền tệ: nó tỉ lệ nghịch với giá cả hàng hóa. Khi giá tiền tệ tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa hơn và ngược lại.

– Cầu thị trường: sự cung cấp hàng hóa của nhà sản xuất

– Cung thị trường: nhu cầu thị trường đối với các loại hàng hóa.

– Quan hệ cung cầu: giá cả tăng giảm, thay đổi do mối quan hệ cung cầu: khi cầu lớn hơn cung thì giá cả hàng hóa tăng, ngược lại khi cung lớn hơn cầu thì giá cả hàng hóa giảm

– Tác động của các chính sách kinh tế: tùy vào chính sách kinh tế của mỗi quốc gia mà giá cả có thể thay đổi theo từng thời kì để phù hợp với sự phát triển trong nước và thế giới.

[Last Updated On: 02/04/2022]

Tìm hiểu về Lượng giá trị của hàng hóa và Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa.

1. Lượng giá trị của hàng hóa là gì?

Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động. Ở đây, lao động tạo thành thực thể của giá trị là thứ lao động giống nhau của con người, là chi phí của cùng một sức lao động của con người…, nó có tính chất của một sức lao động xã hội trung bình…, do đó để sản xuất ra một hàng hóa nhất định, nó chỉ dùng một thời gian lao động trung bình cần thiết hoặc “ thời gian lao động xã hội cần thiết”. Điều đó cũng có nghĩa là, trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hóa, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau. Thế nhưng lượng giá trị của hàng hóa không phải do mức hao phí lao động cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian lao động xã hội cần thiết.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ, trang thiết bị trung bình, trình độ thành thạo trung bình và cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.

Thực chất, thời gian lao động xã hội cần thiết chính là mức hao phí lao động xã hội trung bình [thời gian lao động xã hội trung bình] để sản xuất ra hàng hóa. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt [mức hao phí lao động cá biệt] của người sản xuất hàng hóa nào cung cấp đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định, vì trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện trang bị kỹ thuật trung bình của xã hội ở mỗi nước khác nhau là khác nhau và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi [cao hay thấp] thì lượng giá trị của hàng hóa cũng sẽ thay đổi.

Như vậy, chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa ấy. Đó cũng chính là giá trị xã hội chứ không phải là giá trị cá biệt của hàng hóa.

2. Những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa

Tất cả những yếu tố ảnh hưởng tới thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng tới số lượng giá trị của hàng hóa. Chúng ta xem xét 3 yếu tố cơ bản: năng suất lao động, cường độ lao động và mức độ giản đơn hay phức tạp của lao động.

Năng suất lao động

Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm [hàng hóa].

Năng suất lao động tăng lên có ý nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại. Tức là, giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ khéo léo [thành thạo] trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học – kỹ thuật, công nghệ và mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất, trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất, và các điều kiện tự nhiên.

Cường độ lao động

Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian. Đó chính là mức độ khẩn trương, nặng nhọc, hay căng thẳng của lao động. Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên nhưng sức lao động hao phí cũng tăng lên, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động, thực chất chính là việc kéo dài thời gian lao động. Cường độ lao động cũng phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất, đặc biệt là nó phụ thuộc vào thể chất, tinh thần của người lao động.

Như vậy, tăng cường độ lao động và tăng năng suất lao động đều làm cho số lượng sản phẩm tăng lên. Tuy nhiên, tăng cường độ lao động là thường có giới hạn và hiệu quả thấp, còn tăng năng suất lao động có ý nghĩa tích cực hơn đối với phát triển kinh tế và là nhân tố quan trọng nhất nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa.

Như vậy, mấu chốt để hạ giá trị cá biệt của sản xuất hàng hóa là tăng năng suất lao động. Muốn vậy, phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đào tạo nghề, tăng cường kỹ năng, kỹ xảo, kỉ luật của người lao động, cải tiến tổ chức quản lý, hợp lý hóa sản xuất kinh doanh, ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ, tiết kiệm chi phí sản xuất .

Mức độ phức tạp của lao động

Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá trị của hàng hóa. Có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải trãi qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể tiến hành được. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình.

3. Cấu thành lượng giá trị hàng hóa

W = c + [v + m]

– Giá trị cũ ký hiệu c bao gồm các yếu tố của tư liệu sản xuất như máy móc, nhà xưởng, nguyên liệu, nhiên liệu, được lao  động cụ thể của người sản xuất chuyển hóa  giá trị vào sản phẩm.

– Giá trị mới ký hiệu v+m là lao động sống, lao động trừu tượng bao gồm lao động  tất yếu[v] và lao động thặng dư [m]

– Cấu thành lượng giá trị hàng hóa bao gồm hai bộ phận: giá trị cũ tái hiện và giá trị mới.

Trong khi phân tích kỹ thuật rất có hữu ích khi giao dịch trên thị trường Hàng hóa, rất nhiều nhà giao dịch có xu hướng tập trung vào các yếu tố cơ bản.Vậy lý do là gì?

Cơ sở của phân tích cơ bản là cung và cầu. Trong dài hạn, các yếu tố cơ bản cơ bản [cung và cầu] đóng một vai trò quan trọng. Thị trường tài chính là một nơi phức tạp với nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến giá cả, chúng bao gồm thu nhập và dân số, chi phí sản xuất và công nghệ cộng với hành động của các chính phủ và tổ chức sản xuất. Trong ngắn hạn, giá cả hàng hóa bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như thời tiết, lãi suất và đầu cơ.

THU NHẬP VÀ DÂN SỐ

Khi nền kinh tế phát triển, công nghiệp hóa và đô thị hóa, họ thường tiêu thụ ngày càng nhiều hàng hóa - đặc biệt là kim loại công nghiệp như thép, cũng như năng lượng.

Tuy nhiên, khi các nền kinh tế trở nên giàu có hơn, bạn thường thấy nhu cầu hàng hóa tăng nhỏ hơn để có mức tăng thu nhập tương ứng.

Trong khi đó, loại hàng hóa được tiêu thụ thay đổi - khi nền kinh tế trở nên giàu có hơn, người ta thường tiêu thụ nhiều thực phẩm làm từ protein hơn, do đó làm tăng nhu cầu đối với vật nuôi và các loại cây trồng được sử dụng để nuôi họ.

CHI PHÍ 

Chi phí sản xuất một loại hàng hoá đóng một vai trò quyết định trong việc xác định giá cả hàng hoá. Chi phí sản xuất hàng hóa bao gồm: nguyên vật liệu, tiền lương, nghiên cứu và phát triển, bảo hiểm, phí cấp phép, thuế và mọi chi phí khác mà các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa trong thế giới thực phải gánh chịu.

Yếu tố khác ảnh hưởng đến giá hàng hóa phi nhiên liệu như là giá dầu. Điều này là do dầu là nguyên liệu đầu vào quan trọng trong quá trình sản xuất chất tổng hợp cạnh tranh với các mặt hàng chính khác, do đó giá dầu thực tế giảm cũng có thể góp phần làm giảm giá một số mặt hàng. Hơn nữa, giá xăng dầu có thể có tác động đến chi phí vận tải và do đó tác động đến ngành công nghiệp ô tô và nhu cầu đối với các nguyên liệu thô liên quan. 

CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ VÀ CÁC TỔ CHỨC 

Một số chính phủ [thường là của các nước chuyên quyền] trợ cấp giá hàng hóa, đặc biệt là năng lượng và nông sản, với danh nghĩa mang lại lợi ích cho những công dân nghèo nhất của họ, ví dụ như nhiên liệu và thực phẩm rẻ hơn.

Trong khi đó, thuế có xu hướng được một số chính phủ sử dụng để đánh thuế tiêu dùng và ở đây chúng thường được đặt vào việc tiêu thụ năng lượng [đặc biệt là nhiên liệu vận tải]. Một lý do mà các chính phủ sử dụng để biện minh cho thuế đối với nhiên liệu là tính đến chi phí môi trường liên quan.

Các nhóm nhà sản xuất hàng hóa cũng có thể phối hợp cắt giảm sản lượng để đẩy giá lên cao hơn. Một trong những ví dụ nổi tiếng nhất là Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ [OPEC].

THỜI TIẾT

Quá nhiều nắng, quá khô, quá ẩm, quá nóng hoặc quá lạnh; trừ khi thời tiết thuận lợi, sản lượng nông nghiệp chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng.

Thời tiết cũng có thể ảnh hưởng đến các mặt hàng khác. Sức gió bão ở Vịnh Hoa Kỳ có thể buộc các nhà sản xuất dầu ngoài khơi phải đóng cửa. Mực nước thấp ở Indonesia có thể khiến những người khai thác niken khó vận chuyển kim loại ra thị trường hơn.

LÃI SUẤT VÀ ĐỒNG ĐÔ LA MỸ

Một yếu tố rất quan trọng khác là sự biến động của tỷ giá hối đoái và đặc biệt là giá trị của đồng đô la Mỹ, được sử dụng trong giá giao dịch quốc tế của nhiều mặt hàng. Sự thay đổi giá trị của đồng đô la Mỹ đã ảnh hưởng đến cả người tiêu dùng và nhà sản xuất. Nói chung, đồng đô la Mỹ yếu hơn dẫn đến giá hàng hóa cao hơn và ngược lại. Điều quan trọng là phải chú ý đến biến động tỷ giá hối đoái khi cần một lời giải thích cho biến động giá cao su. Tác động của tỷ giá hối đoái đến giá cả hàng hóa khác nhau thay đổi tùy thuộc vào hệ số co giãn cung / cầu và cân bằng cung / cầu cụ thể đối với từng loại hàng hóa riêng biệt.

Các biến số tiền tệ khác ngoài tỷ giá hối đoái có thể là một yếu tố phổ biến ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa là lạm phát, cung tiền và lãi suất. Lãi suất cao có thể làm giảm giá hàng hóa trực tiếp bằng cách tăng chi phí nắm giữ cổ phiếu và gián tiếp bằng cách giảm kỳ vọng tăng trưởng kinh tế và bằng cách tăng giá trị của đồng tiền so với các đồng tiền khác có lãi suất thấp hơn.

Lãi suất giảm có thể dẫn đến việc các doanh nghiệp và người tiêu dùng vay tiền để đầu tư và tiêu dùng, sau đó gián tiếp làm tăng nhu cầu hàng hóa.

Vì hầu hết các hàng hóa giao dịch trên toàn cầu đều được định giá bằng đô la Mỹ, nên những thay đổi về lãi suất của Hoa Kỳ được truyền sang đồng tiền của nó, hoặc tăng giá khi chính sách tiền tệ thắt chặt hơn hoặc giảm giá nếu nó được nới lỏng, và làm như vậy, nhu cầu đối với hàng hóa bị ảnh hưởng.

NHÀ ĐẦU CƠ

Hàng hóa là một loại tài sản theo đúng nghĩa của chúng. Đổi mới tài chính có nghĩa là bây giờ bất kỳ ai cũng có thể tham gia vào một hoặc một rổ hàng hóa khác nhau. Ngày càng có nhiều quỹ hưu trí và các công ty đầu tư khác tham gia vào các mặt hàng với mục đích đa dạng hóa lợi nhuận của họ. Trong khi đó, giao dịch hàng hóa theo thuật toán đã trở nên quan trọng hơn đối với các quỹ đầu tư đang tìm kiếm lợi nhuận.

Tất cả những yếu tố này đều có một số tác động đến giá cả hàng hóa, nhưng ý nghĩa của chúng càng được nâng cao khi lượng hàng hóa dự trữ toàn cầu ở mức thấp. Mức dự trữ thấp có thể khiến một thị trường hàng hóa cụ thể dễ bị tổn thương hơn do nguồn cung bị gián đoạn không lường trước được hoặc nhu cầu tăng đột biến.

Video liên quan

Chủ Đề