Phân tích tính hai mặt của sản xuất hàng hóa

Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đem trao đổi, đem bán.

hàng hóa có 2 thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị [hay giá trị trao đổi]

– Giá trị sử dụng của hàng hóa là công cụ của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người [như lương thực để ăn, quần áo để mặc…].

Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của nó quy định, nên nó là phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội chứ không phải cho người sản xuất ra nó. Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng đã mang giá trị thay đổi.

– Giá trị hàng hóa:

Muốn hiểu giá trị phải thông qua giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là biểu hiện quan hệ tỷ lệ về lượng trao đổi với nhau giữa các giá trị sử dụng khác nhau.

Chẳng hạn một mét vải trao đổi lấy 10 kg thóc, 2 hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau theo một tỷ lệ nhất định, vì chúng đều là sản phẩm của lao động, có cơ sở chung là sự hao phí lao động chung của con người.

Vậy giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.

Giá trị của hàng hóa biểu hiện mối quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa và là một phạm trù lịch sử. Chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa.

Quan hệ của 2 thuộc tính đó với tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa

Hàng hóa có 2 thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị, vì lao động sản xuất hàng hóa có tính chất 2 mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, phương pháp hoạt động riêng, công cụ lao động riêng, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng.

Ví dụ: thợ mộc dùng rìu, cưa, bào để làm ra đồ dùng bằng gỗ như bàn, ghế, tủ…; thợ may dùng máy may, kéo, kim chỉ để may quần áo. Kết quả của lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.

– Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa, không kể đến hình thức cụ thể của nó. Các loại lao động cụ thể có điểm chung giống nhau là sự hao phí sức óc, thần kinh và bắp thịt sau một quá trình lao động. Đó là lao động trừu tượng nó tạo ra giá trị của hàng hóa.

Trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn, tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội của những người sản xuất hàng hóa.

Đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản đơn. Mâu thuẫn này còn biểu hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tượng, ở giá trị sử dụng với giá trị của hàng hóa.

Mác là người đầu tiên phát hiện tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Mác gọi tính chất 2 mặt là “Điểm mấu chốt để hiểu biết kinh tế chính trị học”.

Lao động là việc sử dụng năng lực và sức mạnh của con người để thực hiện các hoạt động kinh doanh, sản xuất, dịch vụ hoặc các hoạt động liên quan đến xây dựng và phát triển xã hội. Nó có thể bao gồm cả công việc tại nhà và công việc tại các doanh nghiệp hoặc tổ chức.

Nội dung chính:

Theo Mác – Lênin thì hàng hóa có hai thuộc tính chính là giá trị và giá trị sử dụng. Bởi lẽ đó mà bất kỳ loại hàng hóa nào cũng tồn tại hai thuộc tính nàу, nếu thiếu một trong hai thuộc tính nàу thì không được coi là hàng hóa. Hai thuộc tính đó không phải do có hai loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà do lao động của người sản xuất hàng hoá có tính hai mặt.

Tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa là tính chất cụ thể [lao động cụ thể] và tính chất trừu tượng [lao động trừu tượng].

Lao động cụ thể

Lao động cụ thể là việc sử dụng công sức, năng lực và thời gian của một cá nhân để thực hiện công việc hoặc sản xuất hàng hóa.

Ví dụ: Lao động cụ thể của một người thợ mộc có mục đích để sản xuất ra những bộ bàn ghế; đối tượng lao động chính là gỗ; phương pháp lao động của người thợ mộc chính là thao tác về cưa, đục, đẽo, bào, khoan; phương tiện được người thợ mộc sử dụng là cái cưa, cái bào, cái đục, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra được bộ bàn ghế cụ thể.

Các đặc trưng của lao động cụ thể bao gồm:

  1. Lao động cụ thể là cần thiết để sản xuất hàng hóa.
  2. Lao động cụ thể đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra giá trị cho sản phẩm.
  3. Lao động cụ thể cần được trả lương và bảo vệ quyền lợi của người lao động.
  4. Lao động cụ thể phụ thuộc vào các yếu tố như kinh nghiệm, kỹ năng và sức khỏe để thực hiện công việc tốt nhất.

Lao động trừu tượng

Lao động trừu tượng là một khái niệm trong luận thuyết kinh tế, được sử dụng để miêu tả một mô hình kinh doanh chủ yếu dựa trên sản xuất và bán hàng hoá, mà không có mối quan hệ trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng hoặc giữa nhà cung cấp nguyên liệu và nhà sản xuất. Lao động trừu tượng tập trung vào tạo ra giá trị và lợi nhuận, và không quan tâm đến mục đích xã hội hoặc tình nghĩa. Lao động trừu tượng là một phần không thể thiếu của hệ thống kinh tế hiện đại.

Ví dụ: Lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may nếu xét về mặt lao động cụ thể thì rất khác nhau, tuy nhiên nếu bỏ qua tất cả sự khác nhau đó thì lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may có một điểm chung đó là đều phải hao phí sức lao động, có thể là trí óc, cơ bắp, thần kinh của con người.

Đặc trưng của lao động trừu tượng gồm:

  1. Không có mối liên hệ trực tiếp giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, mà có một số trung gian để bán hàng và mua hàng.
  2. Không có mối liên hệ trực tiếp giữa nhà sản xuất và nhà cung cấp nguyên liệu, mà có một số trung gian để mua và bán nguyên liệu.
  3. Lao động trừu tượng không phụ thuộc vào những quan hệ cá nhân hoặc tình nghĩa giữa các bên, mà chỉ dựa trên quan hệ tài chính và kinh doanh.
  4. Lao động trừu tượng là một hệ thống tài chính riêng biệt và được điều hành theo những quy tắc và luật pháp riêng.
  5. Lao động trừu tượng tập trung vào việc tạo ra giá trị thông qua sản xuất và bán hàng hoá, và không quan tâm đến mục đích xã hội hay tình nghĩa.

Mối quan hệ giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng

Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là hai khái niệm khác nhau trong luận thuyết kinh tế. Lao động cụ thể là một mô hình cụ thể của sản xuất và trao đổi, trong đó có quan hệ trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng, hoặc giữa nhà sản xuất và nhà cung cấp nguyên liệu. Lao động trừu tượng lại là một mô hình tổng quát hơn, trong đó có một số trung gian để bán hàng và mua hàng, hoặc mua và bán nguyên liệu. Lao động trừu tượng tập trung vào việc tạo ra giá trị thông qua sản xuất và bán hàng hoá, và không quan tâm đến mục đích xã hội hay tình nghĩa.

Lao động cụ thể và lao động trừu tượng có mối quan hệ là một kết hợp của cả hai mô hình. Lao động trừu tượng là mô hình tổng quát hơn, trong khi lao động cụ thể là một phần cụ thể của mô hình trừu tượng. Chúng ta có thể coi lao động cụ thể như một biểu mẫu của lao động trừu tượng trong thực tế.

Góc nhìn khác: Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là sự kết hợp giữa hai tính chất chính: một là tính chất tích cực như việc tạo ra sản phẩm và tăng trưởng kinh tế và hai là tính chất tiêu cực như việc sử dụng lao động và tài nguyên từ các nước đang phát triển để giảm chi phí và tăng lợi nhuận.

Tính hai mặt của sản xuất hàng hóa là gì?

Hàng hóa có hai thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: vừa mang tính chất cụ thể [lao động cụ thể], lại vừa mang tính chất trừu tượng [lao động trừu tượng].

Hãy giải thích tại sao lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính chất tư nhân vừa mang tính chất xã hội?

Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội. Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã hội vì sản phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của người khác trong xã hội.

Hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất gì của lao động sản xuất hàng hóa?

Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của người sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậy có tính chất tư nhân.

Thế nào là hàng hóa phân tích hai thuộc tính của hàng hóa?

Hai thuộc tính của hàng hóa: Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và đem trao đổi đem bán. Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị [Hay giá trị trao đổi].

Chủ Đề