12và bóng tối, thiện và ác, cái cao thượng và cái thấp hèn Đặc điểm chính của loại nhân vật tư tưởng là tính chất hướng nội. Tácgiả thường chọn những khoảnh khắc, những giây phút loé sáng của cuộc đờinhân vật- đó là lúc con người bị đặt vào một tình huống nào đó, dưới ánh sángcủa trực giác, của vô thức toàn bộ bản thể con người anh ta hoặc một việc làmcụ thể nào đó đã lùi vào quá khứ bỗng hiện lên với những dáng vẻ đầy đặn,đích thực của nó. Nhờ ý thức hướng nội với những giằng xé nội tâm, nhữngsuy nghĩ bên trong ấy mà con người có thể tự ý thức, tự phán xét để vươn tớisự hoàn hảo, hoàn thiện trong hoàn cảnh hoặc rút ra những chiêm nghiệmtrong cuộc đời hay bản thân.Nhân vật nhà văn T trong truyện ngắn Sắm vai là một phương tiệnnghệ thuật sinh động giúp Nguyễn Minh Châu phản ánh một cách hài hướcvà đau xót cái bi kịch đánh mất chính mình. T không phải là nhà văn trẻ,anh đã có bề dày của người từng trải trong cuộc đời lẫn nghề nghiệp. Anhđược đám đàn em rất kính cẩn, ngưỡng mộ, kính trọng. Anh là một ngườidám tự tước bỏ đi hết mọi cái phù phiếm, những lớp vỏ bề ngoài vô bổ, bỏ đitất cả những gì lấp lánh có thể lừa dối mình và người khác. Con người đóhoạ là có sét đánh hay bom nổ hoặc động đất thì mới có thể nhấc anh quẳngra khỏi những trang bản thảo đang viết dang dở [ 13, tr.260]. Thế mà có lúcanh không còn là chính mình. Chỉ vì để chiều lòng cô vợ trẻ mới từ nướcngoài về và để học đòi theo phong cách phương Tây mà anh đã trở thành conngười khác hẳn.Hình ảnh nhà văn T trong vai người chồng, hào hoa phong nhã, vui vẻtrẻ trung với gương mặt như còn hoá trang dang dở từ đi đứng nói cười bắttayđều nhất nhất theo sự nhắc nhở của cô vợ trẻ làm chúng ta không khỏikhông suy nghĩ. Giờ đây anh trở thành con người với vẻ mặt khác một bênđầy suy nghĩ và lơ đễnh của người nghệ sĩ sáng tạo, một phía bên kia lại hết 13sức vui vẻ trẻ trung[13, tr.264], cả đến tiếng cười của anh cũng trở nên lạlùng đáng thương. Cùng trong một con người, bên một con người thật anh taphải thường xuyên tạo ra con người khác cốt để vui lòng vợ. Đây là một hìnhảnh rất thực của cuộc đời, một sự sắm vai thật hơn cả sự thật, thật đến mứcxót xa đau đớn. Hãy sống bằng chính cái bản ngã đích thực của mình, đừngtheo thời lựa gió, đừng làm con kỳ nhông hèn nhát bởi không có mất mát nàođau đớn hơn khi đánh mất chính mình. Đó là điều mà nhà văn T sau chưa đầymột tháng phải sống cho ra người hãy còn trẻ muốn gửi gắm đến người đọc.Đó cũng là ý nghĩa mà nhân vật tư tưởng đã tải đạo một cách trực tiếp tưtưởng nghệ thuật của nhà văn: một lối sống vô tránh nhiệm, sống buông thảkhông phải là con người thật của chính mình [59, tr.64].Nhân vật Nhĩ trong Bến quê lại mang một ý nghĩa tư tưởng khác vềnhững nghịch lý trớ trêu của cuộc đời. Con người cường tráng và thành đạt ấyđã từng có một cuộc đời oanh liệt, đã đi không xót một xó xỉnh nào trên tráiđất. Vậy mà khi mái tóc chưa kịp bạc đã nằm liệt giường và bất lực trong ướcmuốn nhỏ nhoi được sang cái bờ bên kia sông Hồng ngay cửa sổ nhà mình[13, tr.324]. Thì ra con người không phải luôn bất khả chiến bại, cuộc đờiluôn có giới hạn bất ngờ mà con người không thể vượt qua.Và một tầng nghĩa thứ hai không kém phần sâu sắc được rút ra ngaytrong nỗi ân hận muộn mằn đau đớn của Nhĩ. Đây không chỉ là nỗi ân hậnvì chưa được đặt chân đến cái bến quê thân thiết, gần gũi bên kia sông Hồng.Đây còn là sự nhận thức muộn mằn đau xót của một kẻ suốt đời thờ ơ vô tìnhvới những người thân yêu của mình. Sau bao nhiêu năm giờ đây anh mớinhận ra vợ anh- Liên từ trước đến giờ vẫn mặc chiếc áo đã phai màu, đã sờnđi theo thời gian theo năm tháng. Suốt đời anh vòng vèo hoặc chùngchình[13, tr.326] để khi trễ chuyến đò mới cay đắng hiểu rằng những gì đã điqua không bao giờ làm lại được nữa. Từ sự nhận biết cái nghịch lí cuộc sống 14nhân vật Nhĩ đã đem đến một bài học thấm thía về lẽ đời: đừng phung phí quĩthời gian hạn hẹp của mình, hãy sống sao cho khỏi ân hận những năm thángtuổi trẻ. Bến quê theo ý nghĩa đó còn là một nhận thức sáng ngời của nhân vậtvề đường đời và cuộc đời. Nhưng thật oái oăm khi anh nhận thức ra đượcchân lí ấy thì anh lại không còn khả năng để thực hiện. Đó còn là sự bất lựccủa thực tiễn trước khát vọng đẹp đẽ lành mạnh.Nhân vật hoạ sỹ trong truyện ngắn Bức tranh là một trong số nhân vậttư tưởng tiêu biểu nhất của Nguyễn Minh Châu. Người hoạ sỹ có tác phẩmnổi tiếng không chỉ ở trong nước mà còn ở nước ngoài, sau lần đến quán nhỏđể cắt tóc anh mới bàng hoàng phát hiện ra lỗi lầm khó tha thứ của mình. Dothất hứa với người lính đã từng cưu mang giúp đỡ mình khiến cho người mẹcủa người lính vì tưởng con đã chết, khóc thương con nhiều quá mà mù cả haimắt. Bắt đầu từ ngày đó anh sống trong tâm trạng dằn vặt đau khổ. Khi ngườihoạ sỹ nhận ra sự vi phạm chuẩn mực đạo đức thông thường thì chính anh ta,một người khác hiện lên biện hộ cho lý do tội lỗi của mình vì bận việc chuẩnbị cho cuộc triển lãm. Tuy nhiên nếu nhìn vào cách cư xử thường tình của conngười có đạo đức thì hiển nhiên không một lý do nào có thể chấp nhận được.Người hoạ sỹ đã không đủ dũng cảm để ra đầu thú nhưng lương tâm anh lạichưa đến mức có thể lờ đi tội trạng của mình[27]. Quá trình nhận thức củangười hoạ sỹ diễn ra khá phức tạp. Vấn đề lương tâm trách nhiệm của cá nhânđã được Nguyễn Minh Châu đặt ra khá rạch ròi, cụ thể thông qua hình tượngnhân vật họa sỹ. Nếu là một người đạo đức liệu anh ta tự cho phép mình vôơn với con người dẫu vô danh trong xã hội nhưng lại từng cưu mang mình?Và nếu biết được hậu hoạ thói vô ơn của mình liệu anh có thể dũng cảm đểthú tội? Còn ở góc độ người nghệ sỹ phải chăng vì mục đích phục vụ sốđông[13, tr.127] mà anh có quyền lừa dối, coi lời hứa của mình với ngườilính vô danh như một phép ứng xử có phần lịch sự thông thường để đáp lễ? 15Và trước lỗi bất hạnh có thật kia liệu anh có dửng dưng như kẻ vô can ? Cuộctự vẫn của nhân vật hoạ sỹ trước chân dung tự hoạ được tác giả vẽ lên bằngthứ ngôn ngữ gây ấn tượng, đã làm cho truyện ngắn này trở lên nổi tiếng vàothời điểm ấy. Có thể nói hình tượng nhân vật thể hiện mong ước của tác giảtrong việc trở lại cách nhìn thông thường về chuẩn mực đạo đức đối với mọingười trong xã hội.Nguyễn Minh Châu xây dựng nhiều dạng nhân vật tư tưởng mang sắcthái khác nhau bởi đây là thời kỳ mà nhà văn như người đứng giữa trận tiềnnhững nhân vật đó đã thể hiện trực diện và cụ thể hoá ý đồ của nhà văn:Người muốn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh báo động về sự tha hoá đạo đứccủa con người.2. Nhân vật thế sựNhân vật thế sự rất gần gũi với nhân vật tư tưởng ở chức năng kháiquát tư tưởng, rút ra những bài học triết lí nhân sinh sâu sắc. Dạng nhân vậtnày phổ biến trong những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975.Trong trái tim của một nhà văn giàu tấm lòng nhân đạo luôn thường trực nỗilo sợ những tiêu cực trong xã hội, những thói quen vô ơn, bạc bẽo, thờ ơ vàlâu dần liệu nó có trở thành cốt cách của con người Việt Nam chúng ta haykhông[47].Vì nỗi lo âu đầy trách nhiệm ấy Nguyễn Minh Châu đã mượn kiểu loạinhân vật này để gửi cho cuộc đời những lời cảnh tỉnh, những chiêm nghiệmvề tình đời, về lẽ đời. Nếu như nhân vật tư tưởng mang tính cách hướng nộithì nhân vật thế sự mang tính chất hướng ngoại, họ cứ hồn nhiên bộc lộ cáchsống, cách nghĩ của mình trong môi trường quen thuộc. Đó không hẳn là conngười xấu bụng hay độc ác một cách cố ý, nhưng do sự nông cạn, sự vô tâm,họ hành động theo thói vô ý thức mà không hề nghĩ tới hậu quả của cáchsống, cách cư xử của mình đối với mọi người xung quanh. Kết quả là sự bạc 16bẽo, vô ơn, những lối sống thờ ơ, vô trách nhiệm trước số phận của ngườikhác vẫn mặc nhiên tồn tại. Với cái nhìn sắc sảo đầy trách nhiệm NguyễnMinh Châu đã dùng nhân vật thế sự để miêu tả sự thật cuộc đời, để mọi ngườibàng hoàng nhận ra hậu quả nặng nề của thói tục thông thường[59, tr.68].Nếu như những nhân vật tư tưởng luôn day dứt, lo lắng về sự đúngsai, hay dở của mình, thì nhân vật thế sự lại có niềm tin ngây thơ, hồn nhiênvào cách sống của mình. Lương tâm và dư luận không lên án họ chỉ có tácgiả và người đọc nhận thức được tính chất bi hài đau xót của thói tục trongcon người họ.Trong tác phẩm Mẹ con chị Hằng là một biểu hiện hết sức sinh độngcho cách sống thông thường đáng trách của người phụ nữ vô tâm. Chị Hằngkhông phải đứa con bất hiếu, chị cũng yêu mẹ nhất là những khi neo vắng,chị vẫn nhớ tới mình có một bà mẹ trên đời. Đôi lúc chị cũng ân hận đôi lúcchị cũng cáu gắt với mẹ, ân hận về việc làm của mình. Nhưng theo chị bàmẹ cũ kỹ, vụng về ấy, luộm thuộm đến mức không thể không cáu gắt được.Chị cũng biết thương em, nhưng ngay cả khi cuống quýt chuẩn bị tiền nong,quà bánh cho mẹ ra thăm em gái, chị Hằng cũng không quên đòi chiếc áo lenmà em chị đã tự động lấy đi. Trọng tâm cuộc sống và tình yêu thương là chịgiành cả cho chồng, cho con. Cuộc sống gia đình chị giống như một cuộctiếp sức vay của bố mẹ trả cho con cái. Dường như những cái gì mà conngười ta đương nhiên được hưởng thì họ không nâng niu, quý trọng bằngnhững cái mà họ phải đánh đổi cả cuộc đời mình. Câu chuyện khép lại trongsự chiêm nghiệm buồn bã của bà mẹ đời con người ta vay của cha mẹ trảcho con cái[13, tr.249] cũng là lẽ thương tình mà không hề phàn nàn tráchmóc thì nội dung triết lý của câu chuyện càng trở lên sâu sắc và cay đắng.Thông qua tác phẩm, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gióng lên hồichuông cảnh tỉnh đối với những con người đang vô tâm bạc bẽo một cách