Môi trường vi mô ngành mỹ phẩm

Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến hoạt động marketing của mỹ phẩm Oriflame Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây  (401.08 KB, 27 trang )

Tiểu luận Marketing - 1 - GVHD: Nguyễn Thị Thu Hương
LỜI MỞ ĐẦU
Từ xưa đến nay làm đẹp luôn là nhu cầu thiết yếu của con người. Ngày
nay, khi cuộc sống ngày càng phát triển, mức sống ngày càng được nâng cao thì
nhu cầu làm đẹp lại được đòi hỏi cao hơn trước, đó không chỉ dừng lại ở việc
làm thế cho đẹp mà là đẹp nhưng phải khỏe, đẹp nhưng vẫn an toàn cho sức
khỏe. Hiểu được điều này công ty mỹ phẩm ORIFLAME đã cho ra những sản
phẩm đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe đó của khách hàng.
Sự tồn tại của Oriflame dựa vào sự khẳng định tự nhiên tốt hơn nhân tạo.
Oriflame tin rằng vẻ đẹp như tự nhiên đã tạo ra công ty và công ty đem lại vẻ
đẹp tự nhiên cho phụ nữ.
Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đặc biệt khi Việt
Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO
thì việc mua bán, trao đổi hàng hoá ngày càng được chú trọng và quan tâm. Do
vậy, marketing ngày càng trở nên quan trọng và có thể nói rằng Marketing là
chìa giúp các doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong cuộc cạnh tranh sinh
tồn trên thương trường.
Ngày nay các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường đầy
biến động, với sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ, cùng với đó là sự giảm sút
lòng trung thành của khách hàng, sự ra đời của nhiều điều luật mới. Do vậy
doanh nghiệp cần phải giải quyết hàng loạt các vấn đề mang tính thời sự cấp
bách.
Một trong những vấn đề chủ yếu đó là hoạt động nghiên cứu và phân tích
môi trường marketing nhằm xác định tình thế, thời cơ và nguy cơ có thể xảy ra,
đánh giá đúng thực chất khả năng kinh doanh của công ty mình và các đối thủ
cạnh tranh.
Chính vì những lí do của vấn đề đã nêu trên nên trong bài tiểu luận của
mình, tôi chọn đề tài nghiên cứu là:
Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến hoạt động marketing của
mỹ phẩm Oriflame Việt Nam
SV: Nguyễn Thị Hải Yến Đ5  QL5


Tiểu luận Marketing - 2 - GVHD: Nguyễn Thị Thu Hương
CHƯƠNG I: CỞ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm
1.1.1. Môi trường marketing
Môi trường marketing của một công ty (doanh nghiệp) là tập hợp các chủ
thể, các lực lượng bên trong và bên ngoài công ty mà bộ phận ra quyết định của
công ty không thể khống chế được và chúng thường xuyên tác động (ảnh hưởng)
tốt hoặc không tốt tới các hoạt động marketing của công ty.
Như vậy, sự thay đổi, diễn biến của các lực lượng và yếu tố đó không phải
do bộ phận marketing gây ra hay bộ phận marketing có quyền làm thay đổi. Đối
với bộ phận marketing, những biến đổi đó là khách quan. Do đó, bộ phận
marketing chỉ có thể theo dõi, phát hiện để tự thay đổi các quyết định marketing
của mình nhằm giảm thiểu những tác động xấu, khai thác tối đa các tác động tốt
hoặc để thích ứng một cách có lợi nhất.
1.1.2. Phân loại môi trường marketing
1.1.2.1. Môi trường marketing vi mô
Môi trường marketiong vi mô Là những lực lượng, yếu tố có quan hệ trực
tiếp với từng công ty và tác động đến khả năng phục vụ khách hàng của nó.
Những lực lượng này gồm có:
Các lực lượng bên trong công ty (ngoài bộ phận marketing)
Các lực lượng bên ngoài công ty (các nhà cung ứng, các nhà môi giới
marketing, các đối thủ cạnh tranh, công chúng trực tiếp và khách hàng).
1.1.2.2. Môi trường marketing vĩ mô
Môi trường marketing vĩ mô là những lực lượng xã hội trên bình diện rộng
lớn. Nó tác động đến các quyết định marketing của các doanh nghiệp trong toàn
ngành, thậm chí trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân và do đó nó ảnh hưởng dến
các lực lượng thuộc môi trường marketing vi mô, qua đó ảnh hưởng gián tiếp
đến các hoạt động marketing.
SV: Nguyễn Thị Hải Yến Đ5  QL5
Tiểu luận Marketing - 3 - GVHD: Nguyễn Thị Thu Hương

Các yếu tố của môi trường vĩ mô, ngoài yếu tố nhân khẩu, yếu tố tự
nhiên còn có PEST (Political force-yếu tố chính trị, Economic forces - yếu tố
kinh tế, Socicocultural forces - yếu tố xã hội và văn hoá, Technological forces -
yếu tố công nghệ).
1.2. Nội dung lý luận:
1.2.1. Tác động của môi trường vi mô tới hoạt động marketing
1.2.1.1. Các lực lượng bên trong công ty
Nếu một công ty được tổ chức theo các bộ phận bên trong theo mô hình
chức năng thì trong kết cấu tổ chức của mình thường có các bộ phận điển hình
sau: Bộ phận tài chính  kế toán, bộ phận quản trị sản xuất, bộ phận quản trị
nhân lực, bộ phận marketing, bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D), bộ phận
cung ứngCác bộ phận trong công ty thường theo đuổi những mục tiêu khác
nhau do chức năng công việc của họ chi phối, và những mục tiêu của mỗi bộ
phận không phải bao giờ cũng thống nhất với các bộ phận khác, mặc dù tất cả
dều đặt dưới sự điều hành của hội đồng quản trị và ban giám đốc.
Như vậy, các quyết định marketing do bộ phận marketing đưa ra trước hết
phải chịu sự ràng buộc của mục tiêu, chiến lược, kế hoạch do ban lãnh đạo tối
cao đưa ra. Chỉ như vậy, các quyết định marketing mới thu hút được sự chú ý,
quan tâm và ủng hộ của ban lãnh đạo trong công ty.
Bên cạnh đó, phòng marketing phải tranh thủ sự ủng hộ cao nhất của các
bộ phận khác trong công ty đối với các quyết định marketing của mình. Sự ủng
hộ của phòng tài chính- kế toán sẽ đảm bảo cung ứng vốn kịp thời, đầy đủ cho
các hoạt động marketing, và theo dõi tình hình thu chi, giúp bộ phận marketing
đánh giá được thực trạng, hiệu quả của các hoạt động marketing đã đề ra. Sự
ủng hộ của phòng nghiên cứu và phát triển sẽ giúp bộ phận marketing giải quyết
được các vấn đề kỹ thuật và thiết kế, chế tạo được sản phẩm theo đúng yêu cầu
của thị trường mục tiêu, đáp ứng ý đồ định vị thị trường. Giành được sự ủng hộ
của phòng nhân sự, bộ phận marketing có thể đảm bảo có được nguồn nhân lực
dáp ứng tốt các quyết định marketing Mỗi trục trặc trong quan hệ giữa bộ
phận marketing với các bộ phận khác trong công ty đều có thể ảnh hưởng tới sự

thành công của hoạt động marketing.
SV: Nguyễn Thị Hải Yến Đ5  QL5
Tiểu luận Marketing - 4 - GVHD: Nguyễn Thị Thu Hương
1.2.1.2. Các lực lượng bên ngoài công ty
a) Những tổ chức cá nhân cung ứng các yếu tố sản xuất
Để tiến hành sản xuất ra hàng hoá hoặc dịch vụ cung cấp cho thị trường,
bất kì công ty nào cũng cần được cung cấp các yếu tố đầu vào như: nguyên
nhiên liệu, máy móc, lao động, nhà xưởngNhững biến động trên thị trường
các yếu tố đầu vào như số lượng, chất lượng, giá cả, nhịp độ cung cấp đều ảnh
hưởng tới các quyết định marketing của công ty.
Chẳng hạn, do sự tiến bộ của công nghệ trong quá trình sản xuất có thể
tạo ra những vật liệu, năng lượng thay thế hiệu quả hơn. Điều này là cơ hội tốt
cho công ty. Nhưng không ít trường hợp, sự tăng lên của giá cả, lãi suất, tính
khan hiếm của các yếu tố đầu vào làm công ty phải thay đổi các quyết định về
marketing về sản phẩm, dịch vụ dầu ra của mình.
Như vậy, từ phía nhà cung cấp luôn tiềm ẩn những nguy cơ và sự đe doạ
tới các quyết định marketing, qua đó ảnh hưởng tới chất lượng và quan hệ giữa
công ty và khách hàng.
b) Những tổ chức dịch vụ môi giới marketing
Các tổ chức thương mại: các công ty thương mại, các công ty bán buôn,
bán lẻ, các cửa hàng... Do tính chuyên nghiệp của các tổ chức ngày càng cao,
qui mô kinh doanh ngày càng lớn, các công ty này đôi khi có sức mạnh rất lớn
trên thị trường. Nếu thiết lập được quan hệ tốt với các tổ chức này, công ty có
thể dễ dàng đạt được mục tiêu kinh doanh của mình, phân phối hàng hoá tốt hơn
trên thị trường.
Các công ty chuyên tổ chức lưu thông hàng hoá: công ty vận tải, công ty
kho bãiNếu có một hệ thống vận tải tốt, hàng hoá sẽ đến khách hàng với chất
lượng tốt nhất, ngược lại nếu hệ thông vận tải kém, sẽ làm tăng tỉ lệ hỏng hóc do
vận chuyển, mất uy tín của công ty.
Các tổ chức cung ứng dịch vụ marketing: các công ty tư vấn marketing,

nghiên cứu marketing, các tổ chức phương tiện quảng cáo (báo chí, đài truyền
hình)
SV: Nguyễn Thị Hải Yến Đ5  QL5
Tiểu luận Marketing - 5 - GVHD: Nguyễn Thị Thu Hương
Các tổ chức tài chính tín dụng: các ngân hàng, tổ chức tín dụng, công ty
bảo hiểm
Công ty luôn luôn phải cân nhắc tự tổ chức hay mua dịch vụ của các công
ty môi giới, dịch vụ nào tự tổ chức, dịch vụ nào phải mua ở ngoài. Nếu mua
ngoài thì cần tạo quan hệ tốt với các tổ chức này nhằm tạo môi trường kinh
doanh tốt cho công ty.
c) Đối thủ cạnh tranh
Khi tham gia vào kinh doanh, đôi khi dù chỉ là một đoạn thị trường duy
nhất, công ty cũng có thể gặp các đối thủ cạnh tranh. Dưới con mắt của các nhà
quản trị marketing ở mỗi một công ty cụ thể họ thường phân ra 4 loại thủ cạnh
tranh sau đây:
Đối thủ cạnh tranh mong muốn: là các đối thủ cạnh tranh thể hiện những
khát vọng của người tiêu dùng, muốn thỏa mãn các dạng nhu cầu cụ thể - mong
muốn khác nhau trên cơ sở cùng một quỹ mua sắm nhất định.
Đối thủ cạnh tranh là những loại hàng hóa khác nhau, cùng thỏa mãn một
nhu cầu  mong muốn nhất định.
Đối thủ cạnh là các kiểu hàng hoá khác nhau trong cùng một ngành hàng (
loại hàng), cùng thoả mãn một nhu cầu, mong muốn cụ thể.
Đối thủ cạnh tranh là những kiểu (dạng) hàng hoá khác nhau thỏa mãn
cùng một mong muốn cụ thể như nhau, nhưng có nhãn hiệu khác nhau.
Như vậy, các nhà quản trị marketing cần phải nhận diện đầy đủ cả 4 loại
đối thủ cạnh tranh trên, đồng thời phân tích những thay đổi trong quyết định
mua hàng của khách hàng liên quan đến sự thay đổi trong các quyết định
marketing của đối thủ cạnh tranh.
d) Công chúng trực tiếp
Công chúng trực tiếp của một doanh nghiệp là một nhóm (giới) bất kỳ

quan tâm thật sự hay có thể sẽ quan tâm hoặc có ảnh hưởng đến khả năng đạt tới
những mục tiêu đề ra của doanh nghiệp đó. Lực lượng này có thể hỗ trợ, tạo
thuận lợi hoặc chống lại/ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc triển khai
SV: Nguyễn Thị Hải Yến Đ5  QL5
Tiểu luận Marketing - 6 - GVHD: Nguyễn Thị Thu Hương
các nỗ lực marketing để đáp ứng thị trường. Người ta thường xếp công chúng
trực tiếp của một doanh nghiệp theo 3 mức độ:
Công chúng tích cực là nhóm quan tâm tới công ty với thái độ thiện trí.
Công chúng tìm kiếm là nhóm mua chưa quan tâm nên công ty đang tìm
kiếm sự quan tâm của họ.
Công chúng không mong muốn là nhóm có thể tẩy chay công ty.
Các công ty trực tiếp tác động đến hoạt động marketing của một doanh
nghiệp thường có:
Giới tài chính: Các ngân hàng, các công ty đầu tư tài chính, các cổ đông
Giới này có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng đảm bảo nguồn vốn của công ty.
Các phương tiện thông tin đại chúng: báo chí, đài phát thanh, đài truyền
hìnhNhóm này sẽ đưa thông tin có lợi hoặc bất lợi về công ty.
Các cơ quan Nhà Nước có khả năng tác động tới các hoạt động marketing
như: Cục vệ sinh an toàn thực phẩm, Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Văn hoá
thông tin, Bộ Tư phápTùy theo chức năng, mỗi cơ quan có ảnh hưởng tới các
khía cạnh khác nhau của hoạt đông marketing của doanh nghiệp.
Các tổ chúc quần chúng cũng là những lực lượng thường xuyên tác đông
đến hoạt đông marketing của công ty, bao gồm: tổ chức bảo vệ người tiêu dùng,
tổ chúc bảo vệ khách khàng
e) Khách hàng
Mỗi loại doanh nghiệp có thể có 5 loại khách hàng, tạo 5 loại thị trường:
Người tiêu dùng: các cá nhân, hộ gia đình, nhóm người mua hàng hoá
phục vụ các nhu cầu cá nhân.
Các nhà sản xuất: là các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp mua hàng hóa hoặc
dịch vụ của công ty để sản xuất.

Các trung gian thương mại: là các tổ chức, cá nhân mua hàng hoá, dịch vụ
của công ty để bán lại kiếm lời.
Các cơ quan Nhà Nước: mua hàng hoá, dịch vụ để phục vụ cho tiêu dùng
chung như các bệnh viện, trường học,các tổ chức nhân đạo, các tổ chức tài trợ
SV: Nguyễn Thị Hải Yến Đ5  QL5
Tiểu luận Marketing - 7 - GVHD: Nguyễn Thị Thu Hương
Khách hàng quốc tế: là những khách hàng nước ngoài, có thể là người tiêu
dùng, nhà bán buôn trung gian, nhà sản xuất, các cơ quan sản xuất Nhà nước
Mỗi loại khách hàng  thị trường trên có hành vi mua sắm khác nhau. Do
đó, tác động của khách hàng tới các hoạt động marketing của doanh nghiệp
không giống nhau. Doanh nghiệp phải nghiên cứu kĩ từng loại khách hàng  thị
trường để có thể đáp ứng họ một cách tôt nhất.
1.2.2. Tác động của môi trường vĩ mô tới hoạt động marketing
1.2.2.1. Nhân khẩu
Qui mô và tốc độ tăng dân số là khía cạnh quan trọng tác động tới qui mô
nhu cầu.
Thông thường, qui mô của một vùng, một khu vực, một quốc gia càng lớn
thì báo hiệu một qui mô thị trường càng lớn. Bất kì công ty nào, kể cả các công
ty sản xuất tư liệu sản xuất hay tiêu dùng đều bị hấp dẫn bởi thị trường có qui
mô dân số lớn.
Tốc độ tăng dân số là qui mô dân số được xem xét ở trạng thái động. Dân
số tăng nhanh, chậm hay giảm sút là chỉ số báo hiệu triển vọng tương ứng của
qui mô thị trường trong tương lai. Tuy nhiên, tuỳ mặt hàng cụ thể, tương quan
về qui mô và mức độ hấp dẫn của thị trường không phải bao giờ cũng ăn khớp
tuyệt đối.
Cơ cấu dân số có tác động rất lớn đến nhu cầu của các hàng hoá, dịch vụ
cụ thể và đến đặc tính của cầu. Những tham số điển hình của cơ cấu dân số
thường được các nhà quản trị marketing quan tâm, đặc biệt là trong lĩnh vực
hàng tiêu dùng là: giới tính và tuổi tác. Sự thay đổi của cơ cấu giới tính và tuổi
có thể tạo cơ hội chi nhóm hàng này, gây khó khăn cho các nhóm hàng khác.

Tình trạng hôn nhân, gia đình cũng là một nhân tố đáng chú ý tới nhiều
quyết định marketing. Các khía cạnh liên quan đến gia đình như: độ tuổi kết
hôn, độ tuổi sinh con đầu lòng, qui mô gia đình (độc thân hay là gia đình chỉ có
2 vợ chồng hay gia đình có 2 thế hệ, 3 thế hệ cùng chung sống), số lượng gia
đình, số con được sinh của một gia đìnhđều ảnh hưởng tới qui mô, xu hướng
mua sắm.
SV: Nguyễn Thị Hải Yến Đ5  QL5
Tiểu luận Marketing - 8 - GVHD: Nguyễn Thị Thu Hương
Tốc độ đô thị hoá: tốc độ đô thị hoá càng nhanh qui mô, số lượng mua
sắm, chất lượng khách hàng yêu cầu với hàng hoá,dịch vụ càng tăng.
1.2.2.2. Kinh tế
Các nhà quản trị cần phải biết đánh giá tình trạng nền kinh tế trong thời
gian trước mắt và lâu dài. Điều này đặc biệt đúng khi lập kế hoạch marketing
quốc tế. Các yếu tố kinh tế như: tỷ lệ lãi suất của các nhân hàng, tỷ lệ lạm phát
và thất nghiệp, thu nhập của người dân ( triển vọng GDP dài hạn tính trên đầu
người, mức tiền lương tối thiểu) đều tác động tới hoạt đông marketing.
1.2.2.3. Tự nhiên
Những biến đổi của môi trường tự nhiên ngày càng được thế giới quan
tâm. Tuy mức độ cần thiết khác nhau, nhưng không ngành kinh doanh nào
không chịu sự tác động của môi trường tự nhiên. Tài nguyên thiên nhiên có loại
tái sinh, có loại không thể tái sinh. Tính khan hiếm của các loại hàng hoá là
nguy cơ đầu tiên mà các doanh nghiệp và các nhà quản trị marketing phải quan
tâm. Loại tài nguyên nào càng khan hiếm thì nguy cơ đối với các nhà kinh
doanh càng lớn, thông qua giá nguyên liệu, năng lượng
Hiện tượng môi trường bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng là chủ đề
được nhiều giới quan tâm. Người tiêu dùng, các tổ chức ngày càng quan tâm đến
những sản phẩm thân thiện với môi trường.
1.2.2.4. Khoa học kĩ thuật
Khoa học kĩ thuật là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với lợi thế cạnh tranh
của một doanh nghiệp, nó là động lực chính trong toàn cầu hoá. Khoa học kĩ

thuật cho phép các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất với giá rẻ hơn và tiêu
chuẩn chất lượng cao, cung cấp cho người tiêu dùng và doanh nghiệp các sản
phẩm, dịch vụ mới hơn như hoạt động ngân hàng trực tuyến, điện thoại di động
thế hệ mới...,thay đổi việc phân phối sản phẩm ví dụ như bán sách, vé máy bay
hoặc đấu giá qua mạng Internet
Những biến đổi đang diễn ra trong môi trường khoa học kĩ thuật đòi hỏi
các chuyên gia marketing tư vấn cho lãnh đạo các doanh nghiệp hợp tác với các
SV: Nguyễn Thị Hải Yến Đ5  QL5
Tiểu luận Marketing - 9 - GVHD: Nguyễn Thị Thu Hương
viện, chuyên gia kĩ thuật, đồng thời phải hướng kĩ sư ở các công ty nghiên cứu
theo quan điểm thị trường -khách hàng, tránh lãng phí các nguồn lực.
1.2.2.5. Chính trị
Chính trị ảnh hưởng lớn tới những quy định của pháp luật trong kinh
doanh và sức mua của khách hàng qua đó ảnh hưởng tới các doanh nghiệp.
Mức độ ổn định của môi trường chính trị, chính sách của Chính phủ ảnh hưởng
tới hệ thống pháp luật và các quy định về hoạt động kinh doanh và thuế, những
đánh giá, nhìn nhận về văn hoá và tôn giáo của Chính phủ, sự tham gia các hiệp
định thương mại như EU, NAFTA, ASEAN, WTO hay những hiệp định khác
đều là những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động marketing mà các nhà quản trị
marketing cần phải quan tâm.
1.2.2.6. Văn hoá
Tại mỗi nước mức độ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các yếu tố
văn hoá và xã hội cũng khác nhau. Ảnh hưởng của văn hoá tới quyết định
marketing rất đa dạng, nhiều chiều: tôn giáo chính trong nước, quan điểm của
người dân đối với các sản phẩm và dịch vụ ngoại nhập, ảnh hưởng ngôn ngữ có
tới mức độ phổ biến sản phẩm trên thị trường, vai trò của nữ giới và nam giới
trong xã hội, tuổi thọ trung bình của dân số, quan điểm người dân về vấn đề bảo
vệ môi trường
Nền văn hoá: là những chuẩn mực giá trị phản ánh bản sắc văn hoá của
một đất nước, dân tộc. Những chuẩn mực giá trị này rất bền vững và được lưu

giữ một cách trung thành qua thời gian và hoàn cảnh.
Nhánh văn hoá:là những chuẩn mực giá trị được một nhóm, một bộ phân
người do có hoàn cảnh sống giống nhau nên có quan niệm giống nhau. So với
những chuẩn mực giá trị gắn với nền văn hoá, chuẩn mực giá trị do các nhánh
văn hoá tạo ra có thể biến đổi theo thời gian và hoàn cảnh.
Sự biến đổi văn hoá: trong quá trình giao lưu, hội nhập giữa các nền văn
hoá một số chuẩn mực văn hoá có thể thay đổi nhanh theo từng tình huống và
điều đó có thể tạo ra cơ hội marketing rất lớn.
SV: Nguyễn Thị Hải Yến Đ5  QL5
Tiểu luận Marketing - 10 - GVHD: Nguyễn Thị Thu Hương
CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG TỚI HOẠT
ĐỘNG MARKETING CỦA MỸ PHẨM ORIFLAME VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu về mỹ phẩm ORIFLAME
2.1.1. Lược sử hình thành của công ty
Hình 2.1: Jonas and Robert af Jochnick
(Nguồn: http://vn.oriflame.com/about-oriflame/index.jhtml)
Oriflame được sáng lập vào năm 1967 bởi hai anh em Jonas and Robert af
Jochnick và một số người bạn. Đó làm một công ty mỹ phẩm nhỏ đặt văn phòng
trong một garage chật hẹp và lấy bán hàng trực tiếp làm phương thức kinh
doanh. thông qua đội ngũ bán hàng độc lập, bên ngoài môi trường bán lẻ truyền
thống. Bán hàng trực tiếp cho phép người tiêu dùng có được những lời khuyên
và nguồn cảm hứng từ những người mà họ quen biết và tin tưởng. Mua hàng
trực tiếp rất đáng tin cậy và thuận tiện.
Oriflame, trong tiếng la-tinh nghĩa là Ngọn lửa vàng (Aurea flamma). Với
ngọn lửa nung nấu quyết tâm trong tim, họ đã bền bỉ chiến đấu trên thương
trường để đưa cái tên Orilame vào bản đồ doanh nghiệp thế giới.
Ngày nay, công ty mỹ phẩm Oriflame là một trong những công ty sản
xuất và kinh doanh những mặt hàng dưỡng da và mỹ phẩm thiên nhiên chất
lượng cao có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới.
Đến năm 2003 thì oriflamme chính thức thâm nhập vào thị trường Việt

Nam, hiện công ty có 4 trụ sở chính tại các thành phố lớn như : Hồ Chí Minh,
Đà Nẵng, Cần Thơ và Hà Nội.
Công ty tự hào khi có một danh mục sản phẩm chăm sóc sắc đẹp bên
ngoài lẫn bên trong bao gồm 4 dòng sản phẩm mỹ phẩm và 1 dòng sản phẩm
SV: Nguyễn Thị Hải Yến Đ5  QL5