Lý luận và phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với môi trường xung quanh

Giáo trình phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây  (1.55 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
TS. HOÀNG THỊ OANH
THS. NGUYỄN THỊ XUÂN

GIÁO TRÌNH
PHƯƠNG PHÁP CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI MÔI
TRƯỜNG XUNG QUANH

HUẾ - 2007


Bài mở đầu
Đối tượng, nhiệm vụ, cơ sở lý luận và vị trí môn học.
Mối quan hệ giữa môn học với các môn học khác.
Hướng dẫn phương pháp nghiên cứu và học tập môn học.

Yêu cầu

Sau khi học xong bài này sinh viên cần:

Hiểu và biết một số vấn đề cơ bản của môn học: đối tượng, nhiệm vụ, cơ sở lý luận, vị trí và
mối quan hệ của môn học với các môn học khác để từ đó có định hướng đúng đắn và xác
định ý thức học tập môn học này.

Hiểu và biết ứng dụng phương pháp ghi chép, đọc tài liệu và nghiên cứu môn học.
I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ VỊ TRÍ CỦA MÔN HỌC
1. Đối tượng
Phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh là một môn khoa học ứng dụng. Nó
nghiên cứu quá trình hướng dẫn trẻ làm quen với môi trường xung quanh ở trường mầm non, bao
gồm: mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện và cách tổ chức các hình thức cho trẻ làm quen


với môi trường xung quanh ở các độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo theo xu hướng đổi mới.
2. Nhiệm vụ
Mục tiêu chính của môn học là giúp sinh viên nắm vững kiến thức lý thuyết cơ bản và rèn luyện
cho họ kỹ năng thực hành tổ chức, hướng dẫn trẻ mầm non làm quen với môi trường xung quanh.
Mục tiêu này được cụ thể hoá thành các nhiệm vụ như sau:
- Hướng dẫn sinh viên lĩnh hội hệ thống kiến thức khoa học cơ bản về phương pháp làm quen
với môi trường xung quanh.
- Hình thành và rèn luyện kỹ năng tổ chức, hướng dẫn các hoạt động làm quen với môi trường
xung quanh như: học có chủ đích (chủ đề), dạo chơi, sinh hoạt hằng ngày, tham quan...
- Giới thiệu một số phương pháp nghiên cứu khoa học đối với lĩnh vực làm quen với môi trường
xung quanh.
- Giáo dục sinh viên hứng thú học tập môn học, thích tìm hiểu thiên nhiên, cuộc sống xung
quanh và có thái độ ứng xử đúng đắn đối với môi trường sống.
3. Cơ sở lý luận

3.1 Cơ sở tâm lý, giáo dục học của việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh
Nghiên cứu của các nhà tâm lý học và giáo dục học đã chỉ ra rằng tám năm đầu cuộc sống của
trẻ em là giai đoạn phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng: sự tăng trưởng và hoàn thiện về trọng

2


lượng của não và các dây thần kinh, sự phát triển và hoàn thiện không ngừng khả năng vận động,
tâm lý và nhân cách. Trong ba năm đầu của cuộc sống diễn ra sự miêlin hoá các sợi thần kinh, phân
hoá về cấu tạo và chức năng của vỏ não, sản sinh hàng ngàn tỷ sợi thần kinh và các xináp (diện tiếp
nối giữa 2 nơron). Đến 6 tuổi bộ não của trẻ đã đạt được khoảng 90% khối lượng não của người
trưởng thành. Cũng trong những năm đầu tiên của cuộc sống, trẻ em đã lĩnh hội các vận động cơ
bản của cơ thể. Các quá trình nhận cảm được hình thành và hoàn thiện dần trên cơ sở phát triển của
các giác quan và sự phối hợp vận động giữa các bộ phận trên cơ thể. Ngôn ngữ và trí tuệ của trẻ trải
qua các giai đoạn phát triển chính từ trực quan hành động đến tư duy lôgíc. Kinh nghiệm sống của

trẻ được tích luỹ nhanh chóng, phạm vi các biểu tượng được mở rộng, xúc cảm của trẻ trở nên dễ
điều khiển. Xuất hiện sự tự nhận thức, trẻ hiểu được vị trí của mình trong môi trường giao tiếp với
người lạ và người quen. Trẻ bắt đầu có ý thức định hướng trong thế giới đồ vật và tự nhiên, phân
biệt được giá trị của những đồ vật đó.
Sự phát triển về mặt thể chất và trí tuệ trong những năm đầu tiên của cuộc sống cho phép trẻ
tiếp thu, lĩnh hội không chỉ các biểu tượng cụ thể mà cả những biểu tượng khái quát, các mối liên hệ
và sự phụ thuộc lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng xung quanh. Đây cũng là "thời kỳ nhạy cảm" để
cho trẻ tiếp xúc, khám phá thiên nhiên và cuộc sống xã hội. Sự phát triển của trẻ chỉ có thể diễn ra
liên tục và hiệu quả trong sự tương tác giữa trẻ với môi trường xung quanh dưới sự hướng dẫn của
người lớn. Thông qua làm quen với môi trường xung quanh trẻ không chỉ tích luỹ được hệ thống kiến
thức chính xác về thế giới khách quan mà còn phát triển các quá trình tâm lý nhận thức, các phẩm
chất trí tuệ và ngôn ngữ, làm cơ sở cho việc tiếp thu các khái niệm khoa học ở trường phổ thông sau
này. Việc cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên, cuộc sống, người lớn và trẻ em khác giúp trẻ phát triển
những xúc cảm, tình cảm, thẩm mỹ, đạo đức tích cực, thái độ ứng xử đúng đắn với thiên nhiên, xã
hội. Khám phá, hoạt động trong môi trường xung quanh giúp trẻ phát triển về thể chất và các kỹ
năng lao động. Có thể nói làm quen với môi trường xung quanh là một phương pháp quan trọng, chủ
yếu để trẻ phát triển toàn diện.
Để chuẩn bị cơ sở và tâm thế cho trẻ vào học ở trường phổ thông, việc tổ chức cho trẻ làm quen
với môi trường xung quanh chỉ có thể hiệu quả khi căn cứ trên đặc điểm học của trẻ mầm non. Trẻ
mầm non học qua bắt chước, qua trải nghiệm, thí nghiệm; qua sự tương tác, chia sẻ kinh nghiệm;
qua tư duy suy luận và vui chơi. Tạo dựng môi trường chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp, kích thích trẻ
hoạt động tích cực trong môi trường xung quanh sẽ thúc đẩy sự phát triển của trẻ.

3.2. Cơ sở khoa học của việc cho trẻ làm quen với thiên nhiên
Thiên nhiên là tất cả vũ trụ với giới hữu sinh và vô sinh trong đó. Việc cho trẻ làm quen với thiên
nhiên có thể dựa trên các cơ sở khoa học khác nhau, trong đó sinh vật học và sinh thái học là hai cơ
sở khoa học cơ bản.
Sinh vật học là khoa học nghiên cứu các cơ thể sống và các hiện tượng của giới hữu sinh. Theo
quan điểm sinh vật học, tất cả các cơ thể sống (giới hữu sinh) khác với giới vô sinh ở một loạt các
dấu hiệu và tính chất chung. Đó là đặc điểm cấu tạo, sự trao đổi chất, sự phát triển, tăng trưởng,

sinh sản, phản ứng tự vệ và cơ chế tự điều chỉnh. Bất kỳ một cơ thể sống nào dù là động vật hay
thực vật đều có các bộ phận, các cơ quan với các chức năng duy trì sự sống, sự phát triển và sinh

3


sôi, nảy nở. Động vật và thực vật đều có các dấu hiệu và tính chất đặc trưng cho cơ thể sống nhưng
giữa chúng cũng có những điểm khác nhau: Thức ăn của động vật là các chất hữu cơ còn thực vật tự
tạo ra chất hữu cơ từ nước và khí cacbonnic dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. Phần lớn động vật
đều di chuyển và vận động rất tích cực, chúng có các cơ quan vận động; còn thực vật không di
chuyển hoặc di chuyển rất ít.
Khoa học về điều kiện tồn tại của các cơ thể sống trong mối quan hệ qua lại giữa chúng với
nhau và với các điều kiện môi trường gọi là sinh thái học. Trong những năm gần đây diễn ra sự thay
đổi quan điểm trong tự nhiên học, ngoài cơ sở sinh vật học, bổ sung thêm quan điểm sinh thái học
về tự nhiên, thế giới đồ vật và chính con người.
Khái niệm trung tâm trong sinh thái học có thể sử dụng trong việc xây dựng phương pháp luận
cho trẻ làm quen với môi trường thiên nhiên. Đó là mối quan hệ qua lại giữa cơ thể sống với các điều
kiện môi trường. Bất kỳ một cơ thể sống nào cũng có các nhu cầu mà chỉ có các yếu tố của môi
trường bên ngoài mới có thể thoả mãn được. Đó trước hết là nhu cầu về thức ăn, nước uống, không
khí... thông qua quá trình trao đổi chất tạo ra năng lượng giúp cơ thể tồn tại và phát triển. Mỗi cá
thể trong quá trình sống của mình đều phải trải qua các giai đoạn phát triển nhất định và ở mỗi giai
đoạn cơ thể có các nhu cầu khác nhau cần được thoả mãn.
Khái niệm thứ hai của sinh thái học là sự thích nghi của cơ thể sống với các điều kiện môi
trường.
Sự thích nghi của cơ thể sống với các điều kiện môi trường biểu hiện ở tất cả các loài động vật
và thực vật, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống như vận động, thức ăn, phương thức bảo vệ, sinh
sản, trong đặc điểm cấu tạo ngoài, trong sự thay đổi theo mùa v.v...
Khái niệm tiếp theo của sinh thái học là quần thể sinh vật mà chúng ta quen gọi bằng từ ngữ
thông dụng như rừng, đồng cỏ, thảo nguyên, đầm, hồ v.v... Trong mỗi quần thể, thành phần chính là
các loại động, thực vật có cùng nhu cầu đối với các điều kiện môi trường. Những sinh vật sống trong

một quần thể có một số các đặc điểm bên ngoài giống nhau mặc dù chúng không cùng họ, cùng loài.
Ví dụ: những con vật sống dưới nước thường có vây, đuôi; những con vật sống trên không thường có
cánh. Mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh vật chính là sự phụ thuộc thức ăn - trong
sinh thái học gọi là chuỗi thức ăn.
Một trong những khái niệm sinh thái cần thiết cho việc xây dựng phương pháp luận làm quen với
thiên nhiên là mối quan hệ qua lại giữa con người với thiên nhiên. Con người vừa là nhân tố tích cực
trong việc giữ gìn, cải tạo, bảo vệ môi trường thiên nhiên cũng vừa là nguyên nhân cơ bản của sự
phá huỷ môi trường, sự tuyệt chủng của một số loài động, thực vật, phá vỡ cân bằng sinh thái trong
thiên nhiên.
Như vậy, quan điểm sinh vật học và các khái niệm của sinh thái học nêu trên được trình bày phù
hợp với khả năng nhận thức của trẻ là cơ sở để xây dựng nội dung và phương pháp cho trẻ làm quen
với thiên nhiên.

4


3.3. Cơ sở khoa học của việc cho trẻ làm quen với môi trường xã hội
Môi trường xã hội bao gồm con người và xã hội loài người. Môi trường xã hội do chính con người
tạo ra. Trong môi trường xã hội, con người được xã hội hóa. Họ hoạt động và cải tạo xã hội cho phù
hợp với nhu cầu của chính mình.
Khái niệm con người và quá trình xã hội hoá có thể coi là cơ sở khoa học của việc cho trẻ làm
quen với môi trường xã hội.
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học (sinh vật học, xã hội học, triết học...).
Mác và Ăngghen dựa trên thành tựu mới về sinh học của thế kỷ XIX và đứng trên quan điểm
triết học duy vật biện chứng đã nhìn nhận con người trong tiến trình phát triển, tiến hoá của loài và
phát triển của lịch sử xã hội. Theo hai ông con người vừa là "con", vừa là "người".
- "Con" là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự tiến hoá sinh vật. Con người là con (sinh
vật) nên có những đặc điểm, cấu trúc và cơ chế sinh học của loài.
- "Người" là sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong tác phẩm nổi tiếng "Lutvic Phơ Băc và sự cáo
chung của triết học cổ điển Đức" Mác và Ăngghen đã đưa ra luận điểm nổi tiếng: "Bản chất con

người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của mỗi cá nhân riêng lẻ. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội"(2). Các mối quan hệ ở đây là quan hệ của
người với người, quan hệ kinh tế - xã hội do hoàn cảnh lịch sử cụ thể xung quanh con người tạo nên.
Con người tiếp nhận, phản ứng một cách có ý thức với những tác động của môi trường mà tạo nên
cái riêng trong mỗi con người.
Trẻ em cũng giống như con người, là sản phẩm của tự nhiên và sự phát triển xã hội. Nhưng
khác với người lớn, trẻ là sản phẩm chưa hoàn thiện. Theo PGS.TS. Nguyễn Ánh Tuyết "Trẻ em là
một thực thể đang phát triển về nhiều mặt (sinh vật, văn hoá và tâm lý cá nhân) để trở thành một
thành viên của xã hội, một nhân cách"(3). Trẻ em chỉ thành "người" trong quá trình xã hội hoá. Có ít
nhất ba quan điểm về bản chất của quá trình này.
Quan điểm thứ nhất: Xã hội hoá là quá trình thích nghi của cá thể với thế giới xung quanh.
Theo quan điểm này, khi sinh ra con người chỉ có thể sống được trong xã hội loài người nếu biết
thích nghi. Quá trình thích nghi rất phức tạp và diễn ra khác nhau ở mỗi người. Kết quả cuối cùng
là mỗi người phải thích ứng với môi trường xã hội nơi họ trưởng thành. Theo quan điểm này, con
người có phần thụ động, là kết quả của hoàn cảnh.
Quan điểm thứ hai: Xã hội hoá là tổ hợp các quá trình xã hội nhờ đó cá nhân lĩnh hội và tái tạo
hệ thống kiến thức, chuẩn mực, giá trị nhất định, cho phép cá nhân trở thành thành viên có đủ

(2)

Đào Thanh Âm (2002), Giáo dục học mầm non, Tập 1, NXB Đại học Sư phạm.

(3)

Nguyễn Ánh Tuyết (2005), Giáo dục học mầm non - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Đại
học Sư phạm.

5



quyền hạn trong xã hội (I.X.Kôn)(4). Theo quan điểm này, tính tích cực cá nhân còn có phần bị hạn
chế, con người mới chỉ tiếp thu các kinh nghiệm xã hội.
Quan điểm thứ ba: Xã hội hoá là quá trình phát triển của con người trong mối quan hệ qua lại
với thế giới xung quanh (A.V. Mudrik)(5). Theo quan điểm này, con người không chỉ có khả năng tiếp
nhận thế giới một cách thụ động mà còn cải tạo nó.
Cả ba quan điểm trên đều có một điểm chung: Con người có quan hệ qua lại với cuộc sống xã
hội và kết quả của quan hệ đó là xã hội loài người được hình thành.
Có thể xem xét ba quan điểm trên như các giai đoạn nhất định trong quá trình xã hội hoá - từ
thích nghi (giai đoạn 1) đến sự thay đổi, cải tạo xã hội (giai đoạn 2) và bản thân (giai đoạn 3) ở
trong đó. Tuy nhiên không nên hiểu rằng các giai đoạn phát triển của con người cũng tiến hành một
cách tuần tự. Từ khi đứa trẻ sinh ra, quá trình xã hội hoá cần phải được thực hiện với định hướng tới
giai đoạn ba.
Các nhân tố ảnh hưởng đến xã hội hóa trẻ em bao gồm các nhân tố của môi trường hẹp và môi
trường rộng.
Môi trường hẹp bao gồm bản thân trẻ, gia đình và trường mầm non với những người lớn, sinh
hoạt của họ và các đồ dùng, đồ chơi.
Môi trường rộng là làng xóm, khối phố, đất nước, hành tinh với phong cảnh thiên nhiên, di tích
lịch sử, những công trình công cộng và đặc biệt là người lớn với những quy tắc sống, những chuẩn
mực hành vi, ứng xử, các phong tục, tập quán và truyền thống văn hoá đặc trưng.
Như vậy, cho trẻ làm quen với môi trường xã hội cần được dựa trên khái niệm về con người và
những kiến thức về quá trình xã hội hoá trẻ em, để từ đó xây dựng nội dung, phương pháp giáo dục
phù hợp, đảm bảo sự phát triển nhân cách cho mỗi cá nhân.
4. Vị trí của môn học
Trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non và cán bộ chỉ đạo, phương pháp cho trẻ làm
quen với môi trường xung quanh là một môn chuyên ngành, nằm trong nhóm các môn giáo dục
chuyên nghiệp. Môn học này cùng với một số môn khoa học ứng dụng khác có nhiệm vụ không chỉ
cung cấp kiến thức để sinh viên vận dụng trực tiếp vào quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ mà còn trực
tiếp rèn luyện tay nghề cho sinh viên.
Trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ, làm quen với môi trường xung quanh là một nội
dung giáo dục quan trọng, góp phần to lớn vào việc giáo dục toàn diện cho trẻ. Khi chương trình

chăm sóc giáo dục trẻ được tiến hành theo hướng tích hợp chủ đề thì nội dung làm quen với môi
trường xung quanh (MTXQ) trở thành vấn đề trung tâm để từ đó triển khai tất cả các hoạt động giáo
dục ở trường mầm non. Từ các nội dung của môi trường xung quanh thông qua các hoạt động làm

(4)(5)

ấợỗởợõà, ẹ. À. (1998), ềồợðốÿ ố ỡồũợọốờà ợỗớàờợỡởồớốÿ ọợứờợởỹớốờợõ ủ ủợửốàởỹớợộ
ọồộủũõốũồởỹớợủũỹỵ, M. ACADEMA.

6


quen với toán, khám phá khoa học, giáo dục thể chất, âm nhạc, tạo hình, và ngôn ngữ giải quyết các
mục tiêu giáo dục như nhận thức, thể chất, thẩm mỹ, ngôn ngữ và tình cảm xã hội.
Hình thành các
biểu tượng toán
h

Khám phá
khoa học

Giáo dục
thể chất

Phương pháp
cho trẻ làm
quen với
MTXQ

Tổ chức hoạt

động
h h

Phát triển
ngôn ngữ

Giáo dục
âm nhạc

II. MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔN HỌC PHƯƠNG PHÁP CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI MÔI TRƯỜNG
XUNG QUANH VỚI CÁC MÔN HỌC KHÁC
Phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực
khoa học khác.
- Thứ nhất: Nhóm các môn học cơ sở của môn học này, bao gồm:
+ Sinh vật học: cung cấp kiến thức về đặc điểm sinh học của động, thực vật như những cơ thể
sống. Đặc biệt, những kiến thức về cấu tạo bên ngoài, các tập tính vận động, tiếng kêu, thức ăn,
sinh sản và lợi ích, tác hại của động, thực vật là vô cùng cần thiết trong việc cho trẻ làm quen với các
con vật và cây cối.
+ Sinh thái học: cung cấp kiến thức về mối quan hệ của sinh vật với các điều kiện môi trường,
sự thích nghi của sinh vật với môi trường sống, mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh
vật sống trong cùng môi trường. Những nội dung này được trình bày dưới hình thức trực quan, dễ
hiểu, là một trong những nội dung giúp trẻ làm quen với thiên nhiên.
+ Văn hóa học: cung cấp những kiến thức cơ bản về truyền thống văn hoá, các phong tục, tập
quán, mối quan hệ ứng xử của con người Việt Nam... Đây là cơ sở để xây dựng những nội dung cho
trẻ làm quen với cuộc sống xã hội và giáo dục thái độ ứng xử đúng đắn.
+ Tâm lý học mầm non: cung cấp kiến thức về đặc điểm tâm, sinh lý của trẻ ở từng độ tuổi, đặc
biệt kiến thức về đặc điểm nhận thức của trẻ là cơ sở lý luận để xác định yêu cầu, nội dung, phương
pháp và hình thức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh.
+ Giáo dục học mầm non với mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục
trẻ em là cơ sở để xây dựng chương trình và tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với môi trường

xung quanh.

7


- Thứ hai: Nhóm các môn chuyên ngành, bao gồm các môn học: Tổ chức hoạt động tạo hình;
phát triển ngôn ngữ; hình thành các biểu tượng toán học; giáo dục âm nhạc; tổ chức hoạt động vui
chơi... Các môn học này và Phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh có mối quan
hệ tương hỗ. Làm quen với môi trường xung quanh có thể coi là cơ sở để trẻ tiếp thu tốt các nội
dung giáo dục khác, đồng thời khi trẻ tham gia vào các hoạt động giáo dục nêu trên thì các kiến thức
về môi trường xung quanh được củng cố, khắc sâu và mở rộng hơn. Đối với sinh viên và giáo viên
mầm non, việc nắm vững kiến thức về các môn chuyên ngành nói chung và làm quen với môi trường
xung quanh nói riêng sẽ giúp họ nắm vững đặc trưng của từng môn học và phối hợp các nội dung
giáo dục một cách linh hoạt ở tất cả các độ tuổi mầm non.
III. HƯỚNG DẪN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ HỌC TẬP MÔN HỌC PHƯƠNG PHÁP CHO TRẺ
LÀM QUEN VỚI MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH
Phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh là một môn học có phạm vi kiến thức
rộng, thuộc nhiều lĩnh vực khoa học đa dạng như sinh vật học, sinh thái học, văn hoá học, tâm lý học
mầm non, giáo dục học mầm non, đồng thời là môn học rèn luyện tay nghề cho sinh viên. Để học tốt
môn học này đòi hỏi sinh viên phải chịu khó trau dồi kiến thức qua việc nghe giảng, đặc biệt là
nghiên cứu giáo trình chính và các tài liệu tham khảo. Việc áp dụng kiến thức vào thực hành cần phải
rất linh hoạt, vì vậy sinh viên cần rèn cho mình khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, óc phê phán để
không bị lệ thuộc một cách máy móc vào một khuôn mẫu nào đó; biết lựa chọn và tìm ra những nội
dung, phương pháp phù hợp cho từng đối tượng trẻ trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
Dưới đây là một số phương pháp học tập:
1. Nghe giảng và ghi chép
Khi nghe giảng cần vừa tập trung chú ý để nghe hiểu, vừa phải ghi chép. Việc ghi chép phải
mang sắc thái cá nhân, ghi theo cách riêng của mình. Những luận điểm chính, cơ bản của bài giảng
cần được ghi chép một cách khoa học, hệ thống, đầy đủ. Đồng thời phần trình bày, phân tích, lấy ví
dụ của giáo viên cũng cần được ghi tốc ký, ngắn gọn theo ý hiểu của người học. Nên để lề vở cả bên

trái và bên phải. Lề trái làm nổi bật các chương mục, gạch dưới những phần chủ yếu. Những luận
điểm nào không nhất trí có thể đánh dấu bằng các ký hiệu ra ngoài lề, những ví dụ nào bổ sung
thêm cũng có thể ghi vắn tắt ra lề phải. Sau mỗi bài học, cần xem lại bài giảng không chỉ để khắc
sâu tri thức mà còn để mở rộng, bổ sung, đưa ra những cách lý giải, cách nhìn nhận độc lập của
mình về vấn đề của bài giảng bằng cách đọc thêm sách và tài liệu chuyên ngành khác.
2. Đọc sách và ghi chép
Trước khi đọc giáo trình hay tài liệu tham khảo cần xác định rõ mục đích của việc đọc, đó là tìm
hiểu toàn bộ nội dung hay chỉ là một vấn đề, một khía cạnh nào đó hoặc sưu tầm, thu thập tài liệu
bổ sung cho vấn đề đang nghiên cứu hoặc giải quyết một vấn đề thực tiễn nào đó.

8


Đọc lướt toàn bộ cuốn sách nhằm tìm hiểu một cách khái quát nội dung chung của cuốn sách.
Những mục cần chú ý khi đọc lướt là tên sách, tên tác giả, nơi và năm xuất bản, sau đó là phần mục
lục và lời tựa hay còn gọi là lời nói đầu. Sau khi đã đọc kỹ, ghi chép lại những thông tin cần ghi nhớ.
Những vấn đề nào trùng nội dung với bài giảng nhưng cách phân tích hoặc ví dụ minh hoạ khác với
bài giảng có thể ghi tóm tắt ngay vào bài giảng (bên lề phải). Những thông tin nào mới bổ sung cho
bài giảng có thể ghi chép vào bên dưới. Những vấn đề nào chưa rõ có thể đánh dấu lại để hỏi thầy,
hỏi bạn.
Để học tốt môn Phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh cần tham khảo thêm
nhiều tài liệu thuộc các lĩnh vực khoa học cơ bản như sinh vật học, sinh thái học, cơ sở văn hoá Việt
Nam; văn học trẻ em và văn học dân gian Việt Nam... Khi tham khảo các tài liệu này cần ghi tóm tắt
vào một vở riêng. Ngoài vở bài giảng theo chương trình nên có thêm vở ghi tóm tắt đặc điểm đặc
trưng của các đại diện trong các nhóm động, thực vật, tính chất của nguyên, vật liệu như nam châm,
thuỷ tinh ... hoặc ý nghĩa của các sự kiện xã hội. Đây là những kiến thức cơ sở cần thiết của việc cho
trẻ làm quen với môi trường xung quanh.
3. Học cách tư duy
Trong quá trình học cần phải học cách tư duy, cách phân tích vấn đề (Vấn đề này có thể chia
nhỏ ra được không?); học cách sáng tạo (Có thể giải quyết vấn đề này theo cách khác được không?);

học cách so sánh, đối chiếu (Vấn đề này có gì đặc biệt? Phương pháp này áp dụng với các đối tượng
khác nhau thì có khác nhau không?); học cách nhận xét, phê phán để xác định độ tin cậy của các
nguồn thông tin; kiểm tra lý thuyết, nhận xét việc tổ chức các hoạt động của chính mình và của bạn
bè, tìm cách khắc phục những hạn chế mà mình hay bạn mắc phải.
HƯỚNG DẪN TỰ HỌC
- Đọc kỹ bài mở đầu trong tài liệu; so sánh với bài giảng, bổ sung thêm thông tin cần thiết cho
bài giảng.
- Tìm các giáo trình, tài liệu của các môn học: sinh vật học, sinh thái học; văn hoá học; tâm lý
học mầm non; giáo dục học mầm non. Đọc lướt các tài liệu nói trên để xác định các vấn đề nào có
thể tham khảo và sử dụng được.
- Tìm đọc các tài liệu: "Học và dạy cách học" - Nguyễn Cảnh Toàn (Chủ biên). Nhà xuất bản Đại
học Sư phạm Hà Nội - 2004. Chú ý chiến lược học và tự học; các phương pháp thu nhận và xử lý
thông tin.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1.

Trình bày đối tượng, nhiệm vụ, vị trí của môn học Phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường
xung quanh.

9


2.

Phân tích mối quan hệ của môn học Phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh
và các khoa học khác có liên quan.

3.

Phân tích đặc trưng của phương pháp học tập môn học Phương pháp cho trẻ làm quen với môi

trường xung quanh. Trình bày các phương pháp: Nghe giảng và ghi chép; đọc sách và ghi chép;
học cách tư duy.

4.

Phân tích các quan điểm, khái niệm sinh vật học, sinh thái học, triết học về cơ sở khoa học của
việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh. Nội dung cho trẻ làm quen với môi trường
xung quanh có thể xây dựng dựa trên các cơ sở khoa học đó như thế nào?

10


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Lược sử môn học
Đặc điểm nhận thức của trẻ về thế giới
xung quanh
Mục đích, nhiệm vụ và các nguyên tắc cho

Yêu cầu

Sau khi học xong chương 1 sinh viên cần:

Biết sơ lược về lịch sử môn học này ở trên thế giới và Việt Nam.
Nắm vững đặc điểm nhận thức của trẻ mẫu giáo về thế giới xung quanh để làm cơ sở cho
việc xác định yêu cầu, nội dung, phương pháp và hình thức cho trẻ làm quen với môi trường
xung quanh.

Hiểu mục đích, nhiệm vụ và các nguyên tắc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh để

có định hướng đúng đắn khi tổ chức quá trình này ở trường mầm non, và quán triệt các
nguyên tắc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh.
I. LƯỢC SỬ MÔN HỌC
1. Lịch sử xuất hiện và phát triển vấn đề cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh
Cho trẻ làm quen với thiên nhiên, với thế giới con người và hoạt động của họ, nói cách khác là
cho trẻ làm quen với tất cả những gì của thế giới khách quan là nhiệm vụ mà nhân loại phải giải
quyết từ khi nhận thức được sự cần thiết phải truyền lại cho thế hệ sau kinh nghiệm của thế hệ trước.
Ngay từ thế kỷ thứ XVI, J.A.Comenxki (1592-1670) trong cuốn sách "Thế giới tranh ảnh" đã thể
hiện quan điểm của mình về vấn đề này. Cuốn sách của ông là bách khoa toàn thư đặc biệt dành cho
trẻ nhỏ, ở đó trẻ được giới thiệu về thế giới với tất cả sự phát triển khoa học thời bấy giờ. Từ những
bức tranh và những bài luận ngắn kèm theo, trẻ đã có thể biết về những công việc đầu tiên của con
người trên Trái Đất như: làm vườn, làm ruộng, dệt vải; về những cuốn sách, nghệ thuật lời nói, về
đạo đức, tính hài hước, tính nhân văn; về vật lý, hoá học và thiên văn.
J.J.Rutxo (1712-1778)  nhà giáo dục học người Pháp đã gọi thời kỳ từ 2 đến 12 tuổi là thời kỳ
của các giác quan. Ông cho rằng tri thức của trẻ được hình thành bằng cách tiếp xúc với đồ vật và
qua hoạt động thực tiễn. Chính trong quá trình tiếp cận với thế giới xung quanh mà tri thức của trẻ
được hình thành.

11


I.G.Pextalozi (1746-1827); P.H.Phrebel (1782-1852); M.Montexxori (1870-1952) cho rằng việc
nhận biết thế giới khách quan (về đặc điểm, tính chất) là rất quan trọng đối với trẻ trước tuổi đi học.
Chính những quan sát, tiếp xúc với thiên nhiên và xã hội có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát
triển năng lực, trí tuệ của con người.
2. Lịch sử xuất hiện môn học Phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh ở
trường mầm non

Ở Nga từ những năm 20 đến 30 của thế kỷ XX, các nhà giáo dục học đã cố gắng lôi cuốn trẻ vào
cuộc sống xung quanh; giới thiệu với trẻ tất cả những sự kiện của cuộc sống. Trong "Văn bản về

phương pháp" - có thể coi là chương trình giáo dục mầm non đầu tiên ở Nga, đã xác định khối lượng,
nội dung kiến thức về môi trường xung quanh, kể cả các sự kiện chính trị xã hội nổi bật.
Trong chương trình đầu tiên "Chương trình và chế độ sinh hoạt ở trường mầm non" (1932-1934)
có một phần giáo dục chính trị xã hội và một phần làm quen với thiên nhiên. Tuy nhiên, vào thời kỳ
đó chương trình đưa ra những kiến thức tương đối nặng đối với trẻ.
Năm 1938 xuất bản "Tài liệu hướng dẫn giáo viên mầm non", trong đó nhấn mạnh vai trò của
giáo viên như người tổ chức quá trình giáo dục, việc cho trẻ làm quen với cuộc sống xung quanh cần
phải tiến hành thường xuyên trong cuộc sống hằng ngày, phải được đặt làm cơ sở của toàn bộ công
tác giáo dục ở trường mầm non.
Năm 1945 xuất bản tài liệu "Hướng dẫn giáo viên mầm non" trong đó có phần "Làm quen với
xung quanh". Năm 1953, chương trình này trở thành bắt buộc trong các trường mầm non.
Năm 1962 đến 1969 trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ có một phần mang tên "Làm
quen với xung quanh và phát triển ngôn ngữ".
Vào cuối những năm 70 và thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trong chương trình giáo dục mầm non và
đào tạo cô mẫu giáo, lĩnh vực làm quen với môi trường xung quanh được tách thành 2 môn học là
phương pháp làm quen với thiên nhiên và phương pháp làm quen với thực tiễn xã hội.
Hiện nay ở Nga phương pháp làm quen với thiên nhiên được thay bằng phương pháp giáo dục
sinh thái. Đây là một xu hướng mới, xuất hiện vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90. Những
quan điểm cơ bản của giáo dục sinh thái gồm: cơ thể sống và môi trường; quần xã sinh vật và môi
trường; con người và môi trường.

Ở một số nước khác trong chương trình giáo dục trẻ, một trong các lĩnh vực có liên quan nhiều
đến nội dung, phương pháp tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh có tên là khoa học
(Khoa học là cách thức tìm hiểu thế giới xung quanh thông qua khám phá, thử nghiệm, phát hiện,
giải thích, lập luận...). Kết quả của các hoạt động khám phá môi trường xung quanh là trẻ có được
kiến thức khoa học đơn giản và quan trọng hơn là ở trẻ phát triển các năng lực cơ bản như quan sát,
tư duy lôgíc, phán đoán, suy luận...

Ở Việt Nam: Vấn đề cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh được các nhà giáo dục Việt
Nam quan tâm từ những năm 50 - 60 của thế kỷ XX. Thời kỳ đó cho trẻ làm quen với môi trường


12


xung quanh được coi là phương tiện nhằm mục đích phát triển ngôn ngữ. Các nội dung làm quen với
môi trường xung quanh được đưa vào phần "Nhận xét và tập nói" trong chương trình giáo dục mẫu
giáo. Nội dung và phương pháp của phần này còn rất phiến diện và đơn điệu. Sau ngày đất nước
hoàn toàn thống nhất (1975) nội dung của "Nhận xét và tập nói" được bổ sung, cải tiến và mang tên
gọi mới "Tìm hiểu môi trường xung quanh và tập nói". Trong chương trình đào tạo giáo viên mầm
non, nội dung trên được đưa vào môn "Phương pháp phát triển ngôn ngữ".
Từ những năm 1980, khi chương trình dự thảo và cải cách mẫu giáo được biên soạn thì làm
quen với môi trường xung quanh được tách ra như một lĩnh vực tương đối độc lập với tên gọi "Cho
trẻ làm quen với môi trường xung quanh". Tên gọi này được duy trì trong chương trình đổi mới hình
thức chăm sóc và nuôi dạy trẻ (2004). Trong chương trình giáo dục mầm non sắp ban hành, làm
quen với môi trường xung quanh được gọi là khám phá khoa học thuộc lĩnh vực phát triển nhận thức.
Trong chương trình đào tạo sinh viên ngành Sư phạm mầm non Phương pháp cho trẻ làm quen với
môi trường xung quanh là một học phần nằm trong khối kiến thức chuyên ngành. Nội dung của học
phần này kế thừa được những kinh nghiệm tiên tiến trước đây, khắc phục những hạn chế của
chương trình cải cách chỉ nặng về cung cấp kiến thức mà ít có các hoạt động trải nghiệm, hoạt động
thực tiễn nhằm phát triển năng lực cho trẻ; đồng thời cập nhật những kiến thức mới của các chương
trình trên thế giới và thành tựu nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước.
II. ĐẶC ĐIỂM NHẬN THỨC CỦA TRẺ VỀ THẾ GIỚI XUNG QUANH
1. Đặc điểm chung

1.1. Trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh
Nhu cầu nhận thức (theo N.X.Leiitex) là nhu cầu "động não", nhu cầu về sự thoả mãn suy nghĩ,
niềm vui nhận thức(6).
Nhu cầu nhận thức là một trong những nhu cầu cơ bản của con người. Nó xuất hiện từ khi đứa
trẻ mới sinh ra và thể hiện mạnh mẽ vào cuối tuổi nhà trẻ và ở tuổi mẫu giáo.
Mức độ đầu tiên của nhu cầu nhận thức ở trẻ là nhu cầu có những ấn tượng từ thế giới bên

ngoài. Đó là mức độ đầu tiên, có thể coi đó là nền tảng của những nỗ lực nhận thức. Tiền đề sinh
học của nhu cầu này là phản xạ định hướng, hay như cách gọi của I.I.Paplov thì đó là phản xạ "Cái gì
đấy". Dưới ảnh hưởng của phản xạ này trẻ làm quen với những đặc điểm, tính chất của sự vật, tạo
mối liên hệ giữa chúng.
Trẻ lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo đặc biệt thích tiếp xúc, thích chơi, giao tiếp và khám phá thiên
nhiên, thế giới người lớn và bạn bè, bản thân mình và các đồ dùng, đồ chơi, các hiện tượng xảy ra
xung quanh. Càng ngày sự tiếp xúc cá nhân và tiếp xúc nhận thức càng chiếm vị trí đáng kể. Chính
thông qua những tiếp xúc này trẻ thu thập kiến thức mới, mở rộng tầm nhìn, chính xác hoá kinh
nghiệm cá nhân.

(6)

"ẽủốừợởợóốÿ ợọàðồớớợủũố ọồũồộ ố ùợọðợủũờợõ". ẽợọðồọ. Í.ẹ.ậồộũồủà. è. ACADEMA. 1996.

13


Nhu cầu có những ấn tượng dần dần chuyển thành tính ham hiểu biết. Đây có thể coi là mức độ
thứ hai của nhu cầu nhận thức.
Tính ham hiểu biết thể hiện rõ ở những câu hỏi của trẻ. Nội dung của những câu hỏi rất đa
dạng, không có một lĩnh vực kiến thức nào mà trẻ không hỏi, trẻ hỏi về bản thân, về cây cối, về trái
đất, chiến tranh, bệnh dịch HIV v.v... Nội dung và tính chất của câu hỏi phụ thuộc vào lứa tuổi: Trẻ 2
đến 3 tuổi thường hỏi tên, đặc điểm, tính chất của đồ vật: Cái gì? Ai? Ở đâu? Như thế nào? Trẻ 4
đến 5 tuổi thường hỏi về mối liên hệ, quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng thực tiễn, về hệ thống
biểu tượng, về sự giống và khác nhau, v.v... Những câu hỏi: Tại sao? Để làm gì? thường xuyên được
trẻ đưa ra. Trong những câu hỏi đó trẻ thể hiện mong muốn không chỉ biết mà còn tư duy, không
đơn giản là để thu được thông tin mà còn tạo công việc cho tư duy. Trẻ 5 đến 6 tuổi thường đưa ra
hàng loạt câu hỏi về một sự vật, hiện tượng cụ thể nào đó. Ví dụ: Có bao nhiêu loại khủng long? Tại
sao chúng khác nhau? Tại sao khủng long lại tuyệt chủng? Khủng long trên tivi là thật hay giả?
Ở mức độ cao của tính ham hiểu biết là hứng thú nhận thức. Hứng thú nhận thức thể hiện ở

mong muốn của trẻ biết cái mới, làm rõ cái chưa hiểu về đặc điểm, tính chất của sự vật, hiện tượng
xung quanh, ham muốn đi sâu vào bản chất, tìm ra mối quan hệ giữa chúng (T.A. Kulikova)(7). Dưới
ảnh hưởng của hứng thú nhận thức trẻ tỏ ra có năng lực đối với sự tập trung chú ý bền vững, thể
hiện tính độc lập trong giải quyết nhiệm vụ trí tuệ và thực hành. Trẻ trải nghiệm những xúc cảm tích
cực: ngạc nhiên, vui sướng với kết quả nhận thức, tự tin vào bản thân mình. Hứng thú nhận thức của
trẻ thể hiện trong trò chơi, trong hoạt động tạo hình, kể chuyện và các hoạt động khác. Từ những
biểu hiện của nhu cầu nhận thức nêu trên có thể rút ra một số kết luận sư phạm như sau:
- Gia đình, trường mầm non cần tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc thường xuyên với thiên
nhiên, người lớn, bạn bè và thế giới đồ vật.
- Cần có "Nghệ thuật" trả lời các câu hỏi của trẻ:
Thứ nhất, cần có thái độ tôn trọng đối với các câu hỏi của trẻ.
Thứ hai, câu trả lời cần ngắn gọn và rõ ràng để không dập tắt khát vọng hiểu biết của trẻ mà
phải tạo ra tiền đề cho những suy nghĩ, tưởng tượng, hoài nghi của trẻ. Cũng cần phải tính đến mức
độ phát triển trí tuệ và vốn kinh nghiệm của trẻ.
Thứ ba, không nên vội vàng có câu trả lời ngay, có thể cùng với trẻ tìm câu trả lời trong sách vở,
gợi ý để trẻ hỏi ở người lớn có kinh nghiệm hơn, hoặc tổ chức cho trẻ quan sát, trải nghiệm, khám
phá.
- Gia đình, trường mầm non cần tổ chức các hoạt động phong phú, đa dạng nhằm kích thích
hứng thú nhận thức cho trẻ.

1.2. Nhận thức của trẻ mang tính trực quan
- Ở trẻ tuổi mầm non, trong quá trình tiếp xúc với các sự vật của thế giới khách quan bước đầu
đã có sự nhận thức nhưng sự nhận thức của trẻ nhỏ thường chỉ mang tính nhận mặt. Trẻ có thể gọi

(7)

C.A.ấợỗởợõà; T.A.ấúởốờợõà. Äợứờợởỹớàÿ ùồọàóợứờà. è. ÀCDEèÀ. 2002.

14



đúng tên sự vật, biết nó là cái gì, của ai nhưng không lý giải được vì sao lại như thế, nói cách khác
trẻ chưa biết tách các dấu hiệu đặc trưng của sự vật, hiện tượng. Khi có sự hướng dẫn của người lớn
ở trẻ có sự nhận biết nhưng trẻ thường chỉ nhận biết được các dấu hiệu bên ngoài của sự vật, hiện
tượng, còn các dấu hiệu bên trong thuộc về bản chất thì trẻ chưa nhận biết được.
Ví dụ: Trẻ biết trên tivi có hình ảnh, có âm thanh nhưng vì sao lại có thì trẻ chưa hiểu và chưa
giải thích được. Trong một số trường hợp, khi các dấu hiệu bên trong được thể hiện ra bằng các dấu
hiệu bên ngoài thì trẻ có thể nhận biết được. Ví dụ: trẻ biết quả chuối chín vì nó có màu vàng, nắn
thấy chuối mềm và ngửi thấy mùi thơm hoặc trẻ biết con gà trống vì có mào đỏ, to, chân cao, có
cựa, đuôi dài và cong.
- Trẻ dễ dàng tập trung chú ý, ghi nhớ và tái hiện sự vật, hiện tượng lạ, hấp dẫn, ngộ nghĩnh.
Khả năng chú ý, ghi nhớ và tái hiện của trẻ còn phụ thuộc vào mức độ tích cực hành động với đối
tượng.
- Trẻ chỉ có thể nhận biết chính xác các thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi được hành động
trực tiếp với đối tượng, nói cách khác là trẻ được trải nghiệm. Ví dụ: trẻ biết chanh chua khi được
nếm; biết hoa hồng thơm khi được ngửi; biết không thể dùng tay bóc vỏ quả dứa khi được trực tiếp
"bóc" vỏ, v.v...
Kết luận sư phạm cho những biểu hiện này như sau:
- Trong quá trình cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh việc cung cấp tri thức chỉ dừng ở
mức biểu tượng và khái niệm sơ đẳng.
- Cần tăng cường các yếu tố trực quan sinh động và hấp dẫn, đặc biệt phải tổ chức các hoạt
động tích cực trong quá trình cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh.
- Việc cho trẻ nhận biết các dấu hiệu đặc trưng, các thuộc tính của đối tượng phải thông qua các
trải nghiệm, các hoạt động trực tiếp của trẻ với đối tượng.
2. Đặc điểm nhận thức của trẻ ở từng lứa tuổi
Trẻ từ 0 đến 6 tuổi là đối tượng giáo dục của nhiều lĩnh vực văn hoá trong đó có làm quen với
môi trường xung quanh. Ở lứa tuổi này tốc độ và nội dung phát triển của trẻ diễn ra rất nhanh và đa
dạng. Để có thể đưa ra các yêu cầu, nội dung, phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung
quanh một cách hợp lý cần phải nắm được đặc điểm nhận thức ở từng độ tuổi.
Trong tâm lý học trẻ em có rất nhiều cách tiếp cận vấn đề phân chia các giai đoạn lứa tuổi. Một

số tác giả tiêu biểu có thể kể đến như: P.P.Blonxki phân chia các giai đoạn lứa tuổi theo sự xuất hiện
và thay răng; L.X.Vugotxki phân chia theo các giai đoạn khủng hoảng lứa tuổi; J.Piaget thì phân chia
dựa vào sự hình thành và phát triển các chức năng tâm lý(8).
Tuy cách phân chia có khác nhau song các tác giả đều thống nhất quan điểm coi sự phát triển là
quá trình tự vận động không ngừng, đặc trưng của nó ở mỗi giai đoạn là liên tục xuất hiện và tạo
thành cái mới, cái chưa có ở giai đoạn trước.

(8)

Phan Trọng Ngọ, Chủ biên (2001), Tâm lý học trí tuệ, NXB ĐHQG Hà Nội.

15


Từ kết quả nghiên cứu của tâm lý học, trong giáo dục học trẻ em giai đoạn từ 0 đến 6 tuổi được
phân thành hai thời kỳ lớn, đó là giai đoạn từ 0 đến 3 tuổi gọi là lứa tuổi nhà trẻ và giai đoạn từ 3
đến 6 tuổi là giai đoạn mẫu giáo. Mỗi giai đoạn trên lại được phân chia thành các giai đoạn nhỏ hơn.
Mỗi giai đoạn đều được đặc trưng bởi các đặc điểm phát triển nhất định.
Lứa tuổi nhà trẻ (0 đến 3 tuổi)
Trẻ lứa tuổi nhà trẻ được đặc trưng bởi tốc độ phát triển nhanh về mặt thể chất và tâm lý. Sự
phát triển thể chất có quan hệ và ảnh hưởng rõ rệt tới sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Trẻ lứa tuổi nhà trẻ nhận thức thế giới thông qua cảm giác và tri giác, hai quá trình này tạo điều
kiện cho sự phát triển nhận cảm (Cồớủoðớợồ ðàỗõốũốồ) ở trẻ. Giáo dục nhận cảm là cơ sở cho giáo
dục trí tuệ vì thông qua cảm giác và tri giác trẻ biết về đặc điểm, tính chất của thế giới xung quanh.
Trước khi biết nói trẻ đã biết chỉ tay vào đối tượng để trả lời câu hỏi của người lớn.
Trẻ lứa tuổi nhà trẻ đã lĩnh hội ngôn ngữ và sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển tư
duy. Những biểu hiện đầu tiên của tư duy xuất hiện vào cuối năm thứ nhất và đầu năm thứ hai khi
đứa trẻ lĩnh hội các hành động thực hành, định hướng vào việc làm rõ mối quan hệ giữa các đối
tượng. Đây là tư duy trực quan hành động. Cũng ở giai đoạn này ở trẻ đã phát triển các quá trình
tâm lý khác như: trí nhớ, chú ý. Chúng đảm bảo cho trẻ nhận thức thế giới đầy đủ và chính xác hơn.

Giữa năm thứ hai trẻ có thể đưa ra một vài kết luận đơn giản, thiết lập các mối quan hệ nhân
quả giữa các hiện tượng. Để có được điều này trẻ phải có sự giúp đỡ của người lớn (chỉ cho trẻ, nhắc
nhở và hành động cùng trẻ). Ở tuổi này (cuối năm thứ ba) trẻ đã có thể phân biệt âm thanh theo độ
cao, cường độ và nhịp điệu, biết gọi tên một số màu sắc. Nghiên cứu của L.A.Venger và các cộng sự
cho thấy trẻ 2 đến 3 tuổi có thể phân biệt các hình cơ bản và các hình dạng gần gũi, các màu trong
quang phổ và những sắc thái của chúng.
Ở tuổi này, hoạt động chủ đạo là hoạt động với đồ vật. Thông qua đó, trẻ lĩnh hội cách sử dụng
các công cụ và phương tiện vật chất. Cùng với giao tiếp, hoạt động với đồ vật làm cơ sở cho sự xuất
hiện trò chơi sáng tạo ở tuổi mẫu giáo.
Trẻ nhà trẻ cũng đã tích luỹ được những kinh nghiệm xã hội đầu tiên. Ở trẻ hình thành những
thói quen hành vi. Nhu cầu tiếp xúc cá nhân với người lớn ngày càng tăng, điều đó giúp trẻ mở rộng
vốn hiểu biết của mình.
Lứa tuổi mẫu giáo (3 đến 6 tuổi)
- Mẫu giáo bé (3 đến 4 tuổi):
Việc tiếp xúc của trẻ với thế giới bên ngoài được mở rộng hơn. Trẻ bắt đầu tìm hiểu thế giới của
chính con người và dần dần khám phá ra các mối quan hệ đa dạng giữa người với người. Trẻ đã
nhận biết được vị trí của mình trong gia đình và trong trường, lớp mẫu giáo.
Lứa tuổi mẫu giáo bé cũng là điểm khởi đầu của sự hình thành ý thức bản ngã nên trong ý thức
của trẻ còn mang đậm đặc điểm duy kỷ. Trẻ mới chỉ nhận biết được một số quy định đơn giản trong
sinh hoạt, giao tiếp ở gia đình và trường mẫu giáo.

16


Tư duy của trẻ mẫu giáo bé đã đạt tới ranh giới của tư duy trực quan hình tượng nhưng các hình
tượng và biểu tượng của trẻ còn gắn liền với hành động, vì vậy cần giúp trẻ tích luỹ nhiều biểu tượng
thông qua quan sát, tiếp xúc với thế giới xung quanh để cho thế giới biểu tượng ngày càng phong
phú. Trẻ lứa tuổi này đã biết phân biệt các sự vật, hiện tượng bằng dấu hiệu bên ngoài tiêu biểu,
nhận ra sự khác nhau rõ nét giữa hai đối tượng. Tư duy của trẻ còn gắn liền với xúc cảm và ý muốn
chủ quan. Trẻ hay đặt câu hỏi "Tại sao?" là vì tư duy của trẻ chưa cho phép tìm ra những nguyên

nhân khách quan. Đối với trẻ mọi vật đều có hồn, có tính tình và ý thích.
Trẻ mẫu giáo bé chưa biết phân tích, tổng hợp. Cách nhìn nhận sự vật của trẻ là theo lối trực

giác toàn bộ. Khi nhìn một sự vật trẻ không bao quát được sự vật đó là gồm nhiều chi tiết phức tạp
mà chỉ để tâm lần lượt đến từng chi tiết một và không liên kết các chi tiết ấy lại với nhau thành một
tổng thể.
Theo L.X. Vugotxki, sau 3 tuổi tư duy của trẻ đã sẵn sàng hiểu biết các mối quan hệ nhân quả
và sự phụ thuộc nếu như chúng thể hiện ở hình thức trực quan hình tượng. Tư duy của trẻ sẽ cụ thể
nếu như chúng ta cung cấp cho trẻ những kiến thức cụ thể rời rạc, đứt đoạn và riêng lẻ. Nếu chúng
ta cung cấp kiến thức về các mối liên hệ đơn giản và sự phụ thuộc thì trẻ không chỉ tiếp thu được mà
còn lập luận, suy luận về chúng.
Trẻ mẫu giáo bé rất thích thú khi quan sát các sự vật, hiện tượng xung quanh, thích bắt chước
những vận động, hoạt động ngộ nghĩnh, mới lạ.
- Lứa tuổi mẫu giáo nhỡ (4 đến 5 tuổi):
Mẫu giáo nhỡ là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của tư duy trực quan hình tượng. Trẻ em có
nhu cầu khám phá các quan hệ phụ thuộc giữa các sự vật, hiện tượng để giải bài toán nhận thức
ngày càng đa dạng và phức tạp. Trẻ mẫu giáo nhỡ cũng đã có khả năng suy luận mặc dù những kết
luận của trẻ còn rất ngây thơ, ngộ nghĩnh. Trẻ chưa có khả năng tư duy trừu tượng, trẻ thường chỉ
dựa vào những biểu tượng đã có, những kinh nghiệm đã trải qua để suy luận những vấn đề mới,
nhưng chúng thường chỉ dừng lại ở các hiện tượng bên ngoài chứ chưa đi sâu vào bản chất bên
trong. Trẻ dễ lẫn lộn những thuộc tính bản chất và không bản chất của sự vật, hiện tượng, vì vậy cần
phải tiếp tục cung cấp những biểu tượng một cách phong phú, đa dạng, hệ thống hoá và chính xác
hoá dần các biểu tượng về thế giới khách quan.
Trẻ mẫu giáo nhỡ đã biết so sánh các dấu hiệu giống và khác nhau của hai đối tượng. Trong
giao tiếp trẻ đã có ý thức đối với hành động và lời nói của mình. Trẻ biết thực hiện nghĩa vụ bản thân
và tuân thủ những quy định về nề nếp trong vui chơi, học tập, lao động và sinh hoạt ở gia đình cũng
như ở trường mầm non.
Tình cảm của trẻ mẫu giáo nhỡ rất mãnh liệt, trẻ thường biểu lộ tình cảm với người thân, những
nhân vật trong truyện, các con vật, cỏ cây, đồ vật, đồ chơi và các hiện tượng trong thiên nhiên. Trẻ
biết rung cảm rất nhạy bén với những cái đẹp trong thế giới xung quanh. Đối với trẻ cái đẹp, cái tốt

chỉ là một, vì vậy để giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ cần sử dụng đồ dùng trực quan đẹp, sinh
động và hấp dẫn.
- Trẻ mẫu giáo lớn (5 đến 6 tuổi):

17


Ở tuổi này trẻ đã biết tương đối nhiều về bản thân, biết điều khiển những cảm xúc và hành vi,
điều đó tạo điều kiện cho sự chủ động của hành vi. Ở mẫu giáo lớn, ý thức bản ngã của trẻ đã được
xác định, trẻ đã có khả năng so sánh mình với những người khác. Trẻ đã hiểu được giới tính của
mình và biết phải thể hiện thế nào cho phù hợp với giới tính. Trẻ đã có thể lĩnh hội các khái niệm sơ
đẳng và có các lập luận, kết luận chính xác khi được dạy dỗ.
Chú ý của trẻ mẫu giáo lớn đã tập trung hơn và bền vững hơn. Ghi nhớ cũng có tính chủ động
nhiều hơn.
Trẻ mẫu giáo lớn đã có khả năng tổng hợp và khái quát hoá đơn giản những dấu hiệu tiêu biểu
bên ngoài. Trẻ biết so sánh đặc điểm giống và khác nhau của một vài đối tượng, biết phân nhóm các
đối tượng theo một hay vài dấu hiệu rõ nét.
Ở trẻ mẫu giáo lớn, kiểu tư duy trực quan hình tượng vẫn mạnh mẽ, vào cuối tuổi mẫu giáo lớn
đã xuất hiện kiểu tư duy trực quan sơ đồ. Nó cho phép trẻ đi sâu vào những mối liên hệ phức tạp
của sự vật và mở ra khả năng nhìn thấy bản chất của sự vật, hiện tượng, giúp trẻ lĩnh hội kiến thức ở
trình độ khái quát cao nhưng vẫn nằm trong phạm vi của tư duy trực quan hình tượng nói chung.
Theo tác giả L.A.Venger, tư duy trực quan sơ đồ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi là quá trình hình thành
các biểu tượng về không gian với hai thao tác trí tuệ là sơ đồ hoá (mã hoá), tức là sắp xếp vị trí của
các sự vật trong không gian thật (3 chiều) vào một sơ đồ (không gian 2 chiều) theo một chuẩn trong
một hệ quy chiếu nhất định bằng các ký hiệu đã được quy ước, và đọc hiểu sơ đồ (giải mã), tức là từ
một sơ đồ không gian 2 chiều trẻ có thể xác định vị trí của các vật tồn tại trong không gian thật (3
chiều) theo hướng và mốc định hướng nhất định. Tư duy trực quan sơ đồ là kiểu trung gian quá độ
để chuyển từ kiểu tư duy trực quan hình tượng lên kiểu tư duy mới khác về chất, đó là tư duy lôgíc
(tư duy trừu tượng). Kiểu tư duy này đã xuất hiện ở mẫu giáo lớn khi trẻ biết sử dụng thành thạo các
vật thay thế. Khi đã phát triển tốt chức năng ký hiệu của ý thức, trẻ bắt đầu hiểu rằng có thể biểu thị

một sự vật hay một hiện tượng nào đó bằng những từ ngữ hay những ký hiệu khác.
Ở trẻ 5 tuổi, theo L.X.Vugotxki diễn ra "Sự trí tuệ hoá cảm xúc". Trẻ có khả năng ý thức, hiểu và
giải thích những tình cảm của riêng mình và trạng thái xúc cảm của bạn bè, làm thay đổi một cách cơ
bản quan hệ của trẻ với bạn bè. Trẻ đã biết đánh giá nhóm bạn bè qua sự giúp đỡ, hợp tác trong học
tập và vui chơi, chia sẻ suy nghĩ, tình cảm, xuất hiện tình bạn.
Ở lứa tuổi này, kinh nghiệm xã hội của trẻ rất nhiều. Trẻ biết thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của
mình, hiểu được ý nghĩa của lao động đối với con người. Có ý thức đối với hành động văn hoá và
hành vi văn minh trong cuộc sống.
Kết luận sư phạm: Nội dung, phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh phải
phù hợp với đặc điểm nhận thức ở từng lứa tuổi.

18


III. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI MÔI TRƯỜNG
XUNG QUANH
1. Mục đích
Mục đích cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh chính là kết quả mong muốn đạt tới của
quá trình tổ chức các hoạt động làm quen với môi trường xung quanh. Việc xây dựng mục đích cho
trẻ làm quen với môi trường xung quanh trước hết dựa trên các cơ sở khoa học:
- Mục tiêu chung của giáo dục mầm non là "Hình thành ở trẻ những chức năng tâm lý, những cơ
sở ban đầu của nhân cách, năng lực làm người của trẻ và chuẩn bị cho trẻ vào học phổ thông có hiệu
quả..." (Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 5 đến 6 tuổi, 2002 - 2003).
- Mức độ nhận thức (theo Bloom), bao gồm: biết, hiểu, áp dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá.
Đối với trẻ em mục tiêu kiến thức dừng ở 3 mức độ đầu tiên.
- Mục đích học tập mà UNESCO đưa ra: Học để biết, để làm, để sống cùng với mọi người, để
thành người.
- Mô hình nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá "... Làm
chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác
phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật,..." (Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai  Ban chấp hành

Trung ương Đảng khoá VIII).
- Đặc trưng của nội dung, phương pháp làm quen với môi trường xung quanh ở trường mầm
non.
Từ các cơ sở nêu trên tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh nhằm đạt các mục
đích như sau:
- Cung cấp hệ thống kiến thức đơn giản, chính xác, cần thiết về các sự vật, hiện tượng gần gũi
xung quanh.
- Phát triển các năng lực nhận thức để trẻ có thể tự phát hiện vấn đề, tích luỹ kiến thức và giải
quyết các tình huống đơn giản xảy ra trong cuộc sống.
- Giáo dục thái độ ứng xử đúng đắn đối với thiên nhiên và xã hội.
2. Nhiệm vụ
- Hình thành, củng cố các biểu tượng về các sự vật, hiện tượng gần gũi xung quanh. Các biểu
tượng cần phải hình thành ở trẻ gồm có: biểu tượng cụ thể (biểu tượng về con gà trống, con gà mái
...) và biểu tượng khái quát, còn gọi là khái niệm sơ đẳng (biểu tượng về gia súc, gia cầm, cây...)
- Phát triển các kỹ năng nhận thức, bao gồm:
+ Quan sát: Sử dụng các giác quan để thu thập thông tin về đối tượng quan sát.
+ So sánh: Tìm những điểm giống và khác nhau của các đối tượng. Có thể so sánh các đối
tượng có nhiều điểm giống nhau để xếp chúng vào một nhóm hoặc so sánh những đối tượng có
nhiều điểm khác nhau để thấy được sự phong phú, đa dạng của chúng.

19


+ Phân nhóm: Xếp các nhóm đối tượng theo các dấu hiệu tiêu biểu như cấu tạo ngoài, chất liệu,
công dụng. Phân nhóm có thể theo một dấu hiệu hoặc nhiều dấu hiệu cùng lúc.
+ Đo lường: Thông qua quan sát và hành động thực tiễn để nhận biết về lượng, kích thước, thời
gian, nhiệt độ, v.v... Đo lường thường kéo theo việc xếp các đối tượng theo trật tự. Ví dụ: Xếp các
con vật theo thứ tự kích thước tăng dần.
+ Giao tiếp: Trao đổi ý tưởng, hướng dẫn mô tả bằng lời hoặc bằng hình ảnh, sơ đồ, ký hiệu sao
cho người khác hiểu ý tưởng của mình.

+ Suy luận: Dựa trên kết quả quan sát để đưa ra nhiều nhận xét hơn về tình huống quan sát
được. Nó đòi hỏi trẻ phải có một vốn kiến thức nhất định, trẻ phải suy ra một điều mà trẻ chưa nhìn
thấy, bởi vì nó chưa xảy ra hoặc vì nó không thể quan sát trực tiếp được.
+ Phán đoán: Đưa ra những dự báo hợp lý hoặc ước lượng dựa trên kết quả quan sát và kinh
nghiệm cũng như kiến thức của mình. Ví dụ: Nếu không được tưới nước thì lá cây sẽ héo khô. Dự
đoán có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển hiểu biết về nguyên nhân và kết quả, từ đó
có thể phát triển thành khả năng nhận biết quy luật và dựa trên quy luật để dự đoán chính xác điều
sẽ xảy ra.
+ Đặt giả thuyết, kiểm soát các điều kiện bằng nghiên cứu. Đây là những kỹ năng nghiên cứu
thường được hình thành ở các thí nghiệm đơn giản. Ví dụ: Làm thế nào để biết cái hạt đỗ này có thể
nảy mầm? Cần phải chuẩn bị và làm những gì?
Ngoài các kỹ năng nhận thức nêu trên cần hình thành thái độ tích cực đối với việc lĩnh hội kiến
thức: tính tò mò, ham hiểu biết, tính hoài nghi, lạc quan và tự tin. Cũng cần phải phát triển ở trẻ khả
năng chú ý, ghi nhớ có chủ định và các quá trình nhận thức.
- Phát triển ngôn ngữ:
+ Rèn khả năng phát âm đúng.
+ Làm giàu, chính xác vốn từ.
+ Rèn luyện ngôn ngữ mạch lạc.
Các nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ nêu trên cần được chú trọng giải quyết trong mối quan hệ với
các nhiệm vụ khác. Cần tránh ý kiến cho rằng làm quen với môi trường xung quanh chỉ để nhằm phát
triển ngôn ngữ, hoặc ngược lại coi nhẹ các nhiệm vụ này.
- Giáo dục tình cảm đạo đức, thẩm mỹ.
Giáo dục cho trẻ có những xúc cảm, tình cảm tích cực đối với thiên nhiên, với những người xung
quanh, với quê hương, đất nước. Cần giáo dục ở trẻ tình yêu thương đối với những sinh vật nhỏ bé
nhất như cỏ cây, hoa lá, các con vật... bởi vì đây cũng chính là tiền đề của tình yêu quê hương, đất
nước. Trẻ cũng rất cần được giáo dục để yêu những người thân của mình trước tiên và sau đó là
những người xung quanh, những người lao động, biết trân trọng những sản phẩm do người lớn làm
ra. Đồng thời với những tình cảm đạo đức cần giáo dục cho trẻ biết rung cảm trước cái đẹp trong
thiên nhiên và trong xã hội, trẻ biết quý trọng, nâng niu cái đẹp và sau đó là có mong muốn tạo ra
cái đẹp. Giáo dục tình cảm đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ mầm non cần phải có hiệu quả thực chất, tránh

hình thức. Điều này chủ yếu phụ thuộc vào phương pháp, nghệ thuật sư phạm của giáo viên.

20


- Giáo dục thái độ ứng xử đúng đắn với thiên nhiên và xã hội.
Thái độ ứng xử đúng đắn phải dựa trên lòng nhân ái, tình yêu đối với cái đẹp, thái độ tôn trọng,
gìn giữ môi trường và bước đầu biết sống có văn hoá, cụ thể là:
+ Đối với thiên nhiên trẻ phải có thái độ gần gũi, gìn giữ, có ý thức chăm sóc và bảo vệ.
+ Đối với người lớn trẻ phải có thái độ lễ phép, tôn trọng, nghe lời, cảm thông, chia sẻ.
+ Đối với bạn bè phải biết chia sẻ, nhường nhịn, hợp tác, giúp đỡ...
+ Đối với đồ dùng, đồ chơi trẻ biết giữ gìn, sử dụng ngăn nắp, vệ sinh.
Bước đầu giáo dục cho trẻ ý thức bảo vệ môi trường, thái độ tôn trọng chấp hành các quy tắc,
luật lệ giao thông.
- Hình thành và rèn luyện thói quen, kỹ năng cần thiết; hành vi văn hoá, văn minh.
Thông qua làm quen với môi trường xung quanh cần rèn luyện cho trẻ:
+ Các thói quen lễ phép trong giao tiếp, thói quen vệ sinh.
+ Kỹ năng lao động tự phục vụ, chăm sóc cây cối và giúp đỡ cô giáo, người lớn xung quanh.
+ Kỹ năng làm việc tập thể như: kỹ năng thoả thuận, hợp tác, chia sẻ, giúp đỡ...
+ Kỹ năng học tập: kỹ năng phát biểu, bước đầu biết sử dụng một số đồ dùng học tập.
+ Hành vi văn hoá trong giao tiếp, ứng xử, chấp hành quy định ở nơi công cộng và trong tham
gia giao thông.
3. Các nguyên tắc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh
Làm quen với môi trường xung quanh là một trong những nội dung giáo dục cho trẻ mầm non,
vì vậy nó tuân theo các nguyên tắc dạy học nói chung và các nguyên tắc giáo dục trẻ mầm non nói
riêng. Các nguyên tắc này là các quan điểm lý luận chỉ đạo toàn bộ quá trình cho trẻ làm quen với
môi trường xung quanh, đặc biệt là việc lựa chọn nội dung, phương pháp và việc tổ chức các hình
thức cho trẻ làm quen. Dưới đây là một số nguyên tắc chính.

3.1. Đảm bảo tính mục đích

Việc tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh phải hướng tới thực hiện mục tiêu
chung của Giáo dục Mầm non là "Hình thành ở trẻ những chức năng tâm lý, những cơ sở ban đầu
của nhân cách, năng lực làm người của trẻ và chuẩn bị cho trẻ vào học phổ thông có hiệu quả...".
Các nội dung lựa chọn cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh, việc tổ chức các hình thức làm
quen phải giải quyết tốt nhất các nhiệm vụ đề ra. Trên thực tế, các nhiệm vụ giáo dưỡng như cung
cấp kiến thức và rèn luyện năng lực trí tuệ thường được chú trọng hơn các nhiệm vụ giáo dục. Điều
đó dẫn đến kết quả là năng lực ứng xử của trẻ chưa được giáo dục một cách đầy đủ. Vì vậy, khi
hướng dẫn trẻ các hoạt động làm quen với môi trường xung quanh đòi hỏi giáo viên mầm non phải
xác định đầy đủ cả nhiệm vụ giáo dưỡng và giáo dục, làm sao để giáo dục trẻ một cách thiết thực và
hiệu quả nhất, tránh hình thức, giáo điều. Ví dụ: Làm quen với phương tiện giao thông cần giáo dục
trẻ có hành vi văn hoá khi được đi trên các phương tiện giao thông thay bằng giáo dục trẻ biết bảo

21


quản, sử dụng các phương tiện giao thông đó; làm quen với bác nông dân không chỉ giáo dục trẻ
kính trọng bác nông dân mà còn phải giáo dục trẻ quý trọng sản phẩm do bác nông dân làm ra.

3.2. Đảm bảo tính khoa học và phát triển
- Đảm bảo tính khoa học
Những kiến thức về môi trường xung quanh cần cung cấp cho trẻ là những kiến thức sơ đẳng về
sinh vật học, lịch sử, địa lý, vật lý...Vì vậy, việc tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh
ở trường mầm non phải đảm bảo tính khoa học. Cụ thể:
+ Kiến thức cung cấp cho trẻ phải đơn giản, chính xác, có hệ thống và không được tùy tiện.
Những kiến thức cung cấp cho trẻ lứa tuổi mầm non là kiến thức "tiền khoa học" và kiến thức đời
sống.
+ Hệ thống kiến thức cung cấp cho trẻ phải liên tục trong cả 3 độ tuổi và phải phù hợp với trình
độ nhận thức ở từng độ tuổi.
Ví dụ: Ở tất cả các độ tuổi mầm non đều cho trẻ làm quen với động vật nhưng ở mỗi độ tuổi
khối lượng kiến thức không giống nhau; lứa tuổi càng lớn thì phạm vi các đối tượng làm quen càng

rộng, kiến thức càng sâu sắc và khái quát hơn.
Việc phức tạp dần các nội dung cho trẻ làm quen cần phải tính đến sự hình thành những mối
liên hệ và sự phụ thuộc giữa các đối tượng của thực tiễn chứ không phải bằng con đường mở rộng
một cách đơn giản các sự kiện cần lĩnh hội.
+ Kiến thức cung cấp cho trẻ thường đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
+ Cho trẻ làm quen với các đối tượng gần gũi, quen thuộc trước rồi mới đến các đối tượng ở xa
mà trẻ ít được tiếp xúc.
- Đảm bảo tính phát triển
+ Phát triển về đối tượng cho trẻ làm quen: Các sự vật, hiện tượng ở xung quanh chúng ta
không tồn tại ở một trạng thái cố định mà nó luôn luôn nằm trong sự thay đổi, phát triển không
ngừng, vì vậy cần cho trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng trong các trạng thái khác nhau và cho
trẻ cảm nhận được sự phát triển, thay đổi của chúng.
Ví dụ: Làm quen với bông hoa trẻ cần phải biết là trước bông hoa là nụ, sau bông hoa là quả
hoặc hoa tàn.
Với thiên nhiên vô sinh hoặc các đồ vật, hiện tượng cần cho trẻ thấy được cái "quá khứ", cái
"hiện tại" và cái "tương lai" của chúng.
Ví dụ: Làm quen với đồ dùng bằng gỗ trẻ biết những đồ dùng này được làm từ gỗ của các loại
cây khác nhau. Cái bàn hoặc sẽ vẫn được dùng để làm việc hoặc sẽ biến thành củi là phụ thuộc vào
cách sử dụng và bảo quản của con người.
+ Phát triển về nội dung và phương pháp cho trẻ làm quen: Các sự vật, hiện tượng xung quanh
rất phong phú, đa dạng, vì vậy cần áp dụng nguyên tắc "Dạy 1 biết 10", tức là dạy trẻ cách tìm hiểu,
khám phá một số đối tượng tiêu biểu, từ đó trẻ sẽ tự làm quen với các đối tượng khác.

22


Ví dụ: Làm quen với một số loại hoa, cô hướng dẫn trẻ quan sát một số đặc điểm của hoa hồng,
hoa cúc, hoa lay ơn, còn những loại hoa khác trẻ tự áp dụng cách cô hướng dẫn để tìm hiểu chúng.

3.3. Đảm bảo tính thực tiễn

"Thực tiễn là cơ sở của nhận thức", vì vậy các nội dung cho trẻ làm quen với môi trường xung
quanh phải xuất phát từ thực tiễn thiên nhiên và xã hội ở chính địa phương của trẻ. Giáo viên cần
vận dụng linh hoạt các gợi ý của chương trình, đồng thời tận dụng những điều kiện, hoàn cảnh ở địa
phương để lựa chọn nội dung cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh từ các chủ điểm cho sẵn.
Việc xác định các yêu cầu giáo dưỡng và giáo dục; việc sử dụng các phương pháp, hình thức cho trẻ
làm quen cũng cần phù hợp với thực tiễn của trẻ, của trường mầm non và của địa phương. Giáo viên
mầm non cần nghiên cứu và tìm hiểu điều kiện tự nhiên, văn hóa, phong tục, tập quán và truyền
thống của địa phương nơi trẻ sinh sống trước khi tiến hành cho trẻ làm quen với môi trường xung
quanh.

3.4. Đảm bảo tính trực quan thẩm mỹ
Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của trẻ là thiên về trực quan hành động cho nên trong quá
trình cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh cần phải tăng cường các yếu tố trực quan, nhằm
giúp trẻ nhận thức thế giới khách quan một cách hiệu quả, toàn diện và chính xác. Các đồ dùng trực
quan sử dụng cho trẻ làm quen phải đảm bảo yêu cầu sư phạm, thẩm mỹ. Đồ dùng trực quan là
tranh, ảnh, mô hình thì các đối tượng phản ánh trong đó phải giống như trên thực tế. Tránh sử dụng
những tranh ảnh dùng cho kể chuyện cổ tích để cho trẻ nhận biết về các sự vật, hiện tượng xung
quanh.

3.5. Đảm bảo tính tích cực hoạt động của trẻ
Hoạt động cá nhân là một trong những nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân
cách của trẻ, đồng thời tổ chức hoạt động theo hướng tích cực hoá hoạt động của trẻ cũng là yêu
cầu cơ bản của chương trình đổi mới.
Vai trò của giáo viên mầm non là phải tạo ra được môi trường hoạt động phong phú, đa dạng và
hấp dẫn. Ví dụ: các đồ dùng, đồ chơi ở lớp, các nguyên liệu của thiên nhiên vô sinh, thực vật, động
vật ở góc thiên nhiên phải lôi cuốn sự chú ý của trẻ, kích thích trẻ khám phá, nhận biết.
Giáo viên cũng cần động viên, khuyến khích và tạo nhiều cơ hội cho trẻ được trải nghiệm, ứng
dụng những điều đã biết vào trong thực tiễn.
Trong các hoạt động cho trẻ làm quen có tổ chức giáo viên cần phải sử dụng các phương pháp
nhằm phát huy cao độ tính tích cực hoạt động của trẻ. Tính tích cực của trẻ phải được biểu hiện ở

các hoạt động tiếp xúc với đối tượng bằng nhiều giác quan và các hoạt động tư duy linh hoạt. Mỗi
giờ hoạt động chung cần cho trẻ tham gia vào các dạng hoạt động khác nhau như: hoạt động tập
thể, hoạt động theo nhóm và hoạt động cá nhân.

23


HƯỚNG DẪN TỰ HỌC
- Đọc kỹ chương 1 trong giáo trình và các tài liệu tham khảo; đối chiếu với bài giảng, bổ sung
thêm những thông tin cần thiết cho bài giảng.
- Tìm đọc các tài liệu về lịch sử giáo dục học, các quan điểm nói về vai trò của việc cho trẻ làm
quen với môi trường xung quanh với sự phát triển của trẻ.
- Đọc các tài liệu:
+ Tâm lý học trẻ em trước tuổi đi học - Nguyễn Ánh Tuyết (Chủ biên). ĐHSP Hà Nội I.
+ Tâm lý học trẻ em - Ngô Công Hoàn. ĐHSP Hà Nội I.
Đọc kỹ đặc điểm nhận thức của trẻ mẫu giáo về môi trường xung quanh để bổ sung thêm thông
tin và ví dụ cho giáo trình và bài giảng.
- Đọc các tài liệu: Giáo dục học mầm non - Đào Thanh Âm (Chủ biên), ĐHSP Hà Nội I.2003. Tìm
đọc tài liệu nói về mục đích, nhiệm vụ, các nguyên tắc giáo dục mầm non; so sánh với mục đích,
nhiệm vụ, các nguyên tắc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1.

Trình bày một số quan điểm về tầm quan trọng của việc cho trẻ làm quen với môi trường xung
quanh đối với sự phát triển của trẻ.

2.

Trình bày quá trình hình thành và phát triển của chương trình cho trẻ làm quen với môi trường
xung quanh ở Nga và Việt Nam.


3.

Phân tích những đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non nói chung và kết luận sư phạm của mỗi
đặc điểm.

4.

Phân tích đặc điểm nhận thức đặc trưng của từng độ tuổi: nhà trẻ; mẫu giáo bé; mẫu giáo nhỡ;
mẫu giáo lớn và kết luận sư phạm.

5.

Trình bày mục đích, nhiệm vụ cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh. So sánh với mục
đích, nhiệm vụ giáo dục mầm non.

6.

Phân tích các nguyên tắc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh. Trình bày một số ví dụ về
cách vận dụng các nguyên tắc đó trong việc lựa chọn và thực hiện nội dung, phương pháp,
phương tiện và hình thức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh.

24


Chương 2

NỘI DUNG CHO TRẺ LÀM QUEN
VỚI MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH
Cấu trúc nội dung cho trẻ làm quen với môi trường

xung quanh
Giới thiệu nội dung chương trình cho trẻ làm quen

Yêu cầu

Sau khi học xong chương 2 sinh viên cần:
Nắm vững nội dung cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh ở các độ tuổi: nhà trẻ, mẫu
giáo bé, mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn.
Nắm vững nội dung chương trình "Cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh" ở trường
mầm non.
Biết vận dụng nội dung cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh ở từng độ tuổi vào việc
xác định nội dung cụ thể của một số đề tài cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh ở các
độ tuổi.
Biết phân tích và chứng minh tính khoa học, tính đồng tâm và phát triển của chương trình.
I. CẤU TRÚC NỘI DUNG CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH
Môi trường tự nhiên

TNHS
Động vật, thực
t

TNVS
Đất, cát, sỏi, nước

Các hiện tượng thiên nhiên
Nắng, mưa, gió,
Mặt Trời, Mặt Trăng, các vì
sao, các mùa trong năm

MTXQ


Môi trường xã hội

Cuộc sống xã
hội
Bản thân,
gia đình,
trường mầm
non,
quê hương,
đất nước,

Đồ vật và
PTGT
Đồ dùng,
đồ chơi,
phương tiện
giao thông

Ghi chú: TNHS  thiên nhiên hữu sinh, TNVS  thiên nhiên vô sinh, PTGT  phương tiện
giao thông.

25