Khạo khệch là gì

Thở khò khè là tiếng có âm độ tương đối cao do luồng không khí thổi qua các đường thở nhỏ bị hẹp và chèn ép. Đây là một triệu chứng cũng như một dấu hiệu thực thể.

Sinh lý bệnh

Luồng không khí đi qua một đoạn đường thở nhỏ bị hẹp hoặc bị chèn ép sẽ trở nên hỗn loạn, gây ra những rung động lên thành của đường thở; rung động này tạo ra tiếng thở khò khè.

Tiếng khò khè thường kéo dài suốt thì thở ra do áp lực trong lồng ngực tăng lên khi đường thở bị. Tiếng khò khè trong thì thở ra cho thấy tình trạng tắc nghẽn nhẹ hơn so với tiếng thở khò khè trong cả hai thì biểu hiện tình trạng chít hẹp đường thở nghiêm trọng hơn.

Ngược lại, dòng không khí hỗn độn đi qua một đoạn đường thở lớn bị hẹp ở ngoài lồng ngực tạo ra tiếng thở rít thì hít vào (tiếng thở rít).

Nguyên nhân

Chít hẹp đường thở nhỏ có thể là do co thắt phế quản, phù nề niêm mạc, hoặc bị ép từ bên ngoài, hoặc tắc nghẽn một phần bởi khối u, dị vật, hoặc các chất tiết đặc.

Nhìn chung, các nguyên nhân phổ biến nhất là

Hen

COPD

Tuy nhiên, tiếng khò khè có thể xảy ra trong các rối loạn khác ảnh hưởng đến đường thở nhỏ, bao gồm suy tim (hen tim), sốc phản vệ, và hít phải chất độc. Đôi khi, bệnh nhân khỏe mạnh biểu hiện tiếng khò khè trong một cơn viêm phế quản cấp. Ở trẻ em, viêm phế quản và dị vật đường thở cũng là nguyên nhân (xem Bảng: Một số nguyên nhân của tiếng thở khò khè).

Đánh giá

Khi bệnh nhân đang bị suy hô hấp nặng, đánh giá và điều trị tiến hành cùng một lúc.

Tiền sử

Tiền sử của các bệnh hiện nay nên xác định xem thở khò khè mới xuất hiện hay tái phát. Nếu tái phát, bệnh nhân được yêu cầu chẩn đoán trước và liệu các triệu chứng hiện tại có khác nhau về bản chất hoặc mức độ nghiêm trọng. Đặc biệt khi chẩn đoán không rõ ràng,ố cần chú ý đến các yếu tố: mức độ khởi phát (ví dụ, đột ngột hoặc dần dần), tính chất diễn biến (ví dụ, liên tục hoặc gián đoạn, biến đổi theo mùa) và yếu tố khởi phát hoặc gây ra đợt cấp (ví dụ: đang có URI, phơi nhiễm chất gây dị ứng, không khí lạnh, tập thể dục, xảy ra khi trể đang ăn). Các triệu chứng đi kèm quan trọng khác bao gồm khó thở, sốt, ho và đờm.

Đánh giá một cách hệ thống nên tìm kiếm các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh lý căn nguyên, bao gồm sốt, đau họng, và chảy nước mũi (nhiễm trùng đường hô hấp); khó thở khi nằm, khó thở kịch phát về đêm, và phù ngoại biên (suy tim); mồ hôi ban đêm, giảm cân, và mệt mỏi (ung thư); nghẹt mũi, ngứa mắt, hắt hơi và phát ban (phản ứng dị ứng); và nôn mửa, ợ nóng và khó nuốt (bệnh trào ngược dạ dày thực quản gây ra sặc).

Tiền sử y khoa nên hỏi về những yếu tố gây ra thở khò khè, đặc biệt là hen suyễn, COPD, và suy tim. Đôi khi danh sách thuốc của bệnh nhân có thể là dấu hiệu duy nhất của các chẩn đoán như vậy, thuốc giãn phế quản dạng hít và thuốc corticosteroid trong COPD, thuốc lợi tiểu và thuốc ức chế ACE trong suy tim). Bệnh nhân có có tiền sử bệnh nên được hỏi về các thông tin về mức độ nghiêm trọng của bệnh như đợt nằm viện trước, có phải đặt nội khí quản, hoặc điều trị tại ICU. Ngoài ra, cũng cần xác định các bệnh lý suy tim được, bao gồm bệnh xơ vữa động mạch hoặc tim bẩm sinh và cao huyết áp. Hút thuốc lá và tiếp xúc với khói thuốc gián tiếp cần lưu ý.

Khám thực thể

Các dấu hiệu quan trọng được xem xét khi có sốt, nhịp tim nhanh, thở nhanh, và độ bão hòa oxy thấp.

Bất kỳ dấu hiệu nào về suy hô hấp (ví dụ như sử dụng cơ hô hấp phụ, co rút , thở bằng miệng, kích động, tím tái, rối loạn ý thức) cần được lưu ý ngay lập tức.

Khám tập trung vào phổi, đặc biệt là đánh giá đầy đủ luông khí ra và vào đường thở, nghe phổi đối xứng, và vị trí tiếng thở khò khè (lan tỏa hoặc khu trú, ở thì hít vào, thở ra, hoặc cả hai). Cần lưu ý các dấu hiệu của hội chứng đông đặc (ví dụ, tiếng dê kêu, gõ đục) hoặc tiếng rale nổ.

Khám tim nên tập trung vào những phát hiện có thể cho biết suy tim, chẳng hạn như tiếng thổi, tiếng T3(S3 gallop), và giãn tĩnh mạch cổ.

Khám mũi và họng cần lưu ý đến tình trạng của niêm mạc mũi (ví dụ như màu sắc, tắc nghẽn), sưng mặt hoặc lưỡi, và các dấu hiệu viêm mũi, viêm xoang, hoặc polyp mũi.

Khám các chi để phát hiện ngón tay dùi trống, phù, và khám da để phát hiện các dấu hiệu phản ứng dị ứng (ví dụ, nổi mày đay, phát ban) hoặc atopy (ví dụ như, eczema). Lưu ý đến các dấu hiệu toàn trạng của bệnh nhân, chẳng hạn như suy nhược và lồng ngực hình thùng trong COPD nặng.

Triệu chứng quan trọng

Những dấu hiệu sau đây cần quan tâm đặc biệt:

Co kéo cơ hô hấp phụ, dấu hiệu mệt mỏi, hoặc giảm mức độ nhận thức

Tiếng thở khò khè cố định khi hít vào và thở ra

Phù mặt và lưỡi (phù mạch)

Giái thích các triệu chứng

Sự tái phát của triệu chứng thở khò khè trên bệnh nhân có tiền sử các bệnh lý như hen, COPD, hoặc suy tim thường được cho là biểu hiện của một đợt cấp. Ở những bệnh nhân có cả bệnh phổi và tim, các biểu hiện có thể tương tự nhau (ví dụ như chứng giãn tĩnh mạch cổ và phù ngoại biên trong bệnh mạch vành do COPD và suy tim) và thường đòi hỏi làm các xét nghiệm để chẩn đoán. Khi nguyên nhân đã xác định được là hen hoặc COPD, tiền sử ho, chảy nước mũi, hoặc tiếp xúc với chất gây dị ứng hoặc khí độc hoặc gây kích ứng (ví dụ, không khí lạnh, bụi, khói thuốc lá, nước hoa) có thể gợi ý một yếu tố khởi phát.

Các kết quả lâm sàng sẽ gợi ý nguyên nhân gây thở khò khè ở bệnh nhân không có tiền sử bệnh lý gì trước đóxem Bảng: Một số nguyên nhân của tiếng thở khò khè).

Thở khò khè cấp tính (khởi phát đột ngột) khi không có các triệu chứng URI gợi ý phản ứng dị ứng hoặc sốc phản vệ đe dọa tính mạng, đặc biệt nếu có triệu chứng nổi mày đay hoặc phù mạch. Sốt và triệu chứng URI cho thấy tình trạng nhiễm trùng, viêm phế quản cấp ở trẻ lớn hơn và người lớn, và viêm tiểu phế quản ở trẻ em < 2 tuổi. Rale ẩm, tĩnh mạch cổ nổi, và phù ngoại vi cho thấy tình trạng suy tim. Sự kết hợp của thở khò khè khi ăn hoặc nôn ở trẻ sơ sinh có thể là do trào ngược dạ dày thực quản.

Bệnh nhân bị hen thường có các cơn thở khò khè cấp tính kịch phát hoặc ngắt quãng.

Triệu chứng khò khè dái dẳng cục bộ, cho thấy tắc nghẽn phế quản phổi do khối u hoặc dị vật. Khó thở dai dẳng biểu hiện rất sớm từ khi còn nhỏ cho thấy một bất thường bẩm sinh hoặc cấu trúc. Thở khò khè dai dẳng với khởi phát đột ngột phù hợp với dị vật hô hấp, trong khi thở khò khè khởi phát dần dần có thể là một dấu hiệu của sự chèn ép từ bên phế quản bởi một khối u đang phát triển hoặc hạch bạch huyết.

Xét nghiệm

Xét nghiệm nhằm đánh giá mức độ nghiêm trọng, xác định chẩn đoán, và xác định các biến chứng.

Đo độ bão hòa oxy máu

Chụp X-quang ngực (nếu chẩn đoán không rõ ràng)

Đôi khi cần làm khí máu động mạch (ABG)

Đo chức năng hô hấp khi cần thiết

Mức độ nghiêm trọng được đánh giá bằng đo độ bão hòa oxy ở bệnh nhân có dấu hiệu suy hô hấp hoặc mệt cơ cần làm ABG. Bệnh nhân bị hen thường có thể đo lưu lượng đỉnh tại giường (hoặc, nếu có, đo thể tích thở ra trong 1 giây đầu tiên [FEV1]).

Bệnh nhân có triệu chứng thở khò khè dữ dội liên tục hoặc mới xuất hiện chưa được chẩn đoán cần phải chụp X quang ngực. X-quang có thể trì hoãn ở bệnh nhân hen đang có đợt cấp nặng và ở những bệnh nhân có biểu hiện rõ ràng của phản ứng dị ứng. Tim to, tràn dịch màng phổi, và tràn dịch rãnh liên thùy lớn cho thấy suy tim. Giãn phế nang và phổi tăng sáng gợi ý COPD. Tình trạng xẹp hay xâm lấn một thùy hoặc phân thùy phổi gợi ý tổn thương tắc nghẽn trong lòng phế quản. Đám mờ trên phim Xquang trong đường thở hoặc giãn phế nang khu trú gợi ý đến dị vật.

Nếu chẩn đoán chưa rõ ràng ở bệnh nhân thở khò khè tái phát, đo chức năng hô hấp có thể xác định được hiện tượng giới hạn luồng khí thở và định lượng khả năng phục hồi và mức độ nặng của dấu hiệu này. Test kích thích bằng Methacholine và nghiệm pháp gắng sức có thể chẩn đoán được tình trạng tăng tính đáp ứng đường thở ở những bệnh nhân nghi ngờ chẩn đoán hen.

Điều trị

Điều trị triệt để thở khò khè là điều trị các bệnh lý nền.

Thở khò khè có thể điều trị hết bằng thuốc giãn phế quản dạng hít (ví dụ, albuterol dạng khí dung 2,5mg hoặc hít liều định liều 180 mg). Việc kiểm soát triệu chứng khò khè lâu dài do hen có thể đòi hỏi phải dùng corticosteroid dạng hít và thuốc kháng leukotriene.

Tiêm tĩnh mạch thuốc kháng histamin H2 (diphenhydramine), corticosteroid (methylprednisolone), và epinephrine racemic tiêm dưới da và dạng hít được chỉ định trong trường hợp phản vệ.

Những điểm chính

Hen là nguyên nhân phổ biến nhất, nhưng không phải tất cả thở khò khè đều do hen.

Thở khò khè khởi phát cấp tính ở bệnh nhân không có bệnh lý phổi có thể do sặc, phản ứng dị ứng hoặc suy tim.

Tình trạng tăng phản ứng đường thở có thể chẩn đoán bằng phương pháp đo chức năng hô hấp.

Thuốc giãn phế quản dạng hít là điều trị chính trong tình trạng cấp tính.