Khám phá có hướng dẫn lại phù hợp với học sinh tiểu học hơn là khám phá độc lập

Trường Tiểu học Định Công: Dạy học Toán cho học sinh lớp 5 theo phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn  Ngày đăng 16/09/2019 | 17:18

Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy học Toán cho học sinh lớp 5 theo phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn

Phần I . MỞ ĐẦU

Môn Toán cũng giống như những môn học khác ở Tiểu học ở chỗ cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát triển các năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người.

Môn Toán ở trường Tiểu học là một môn học độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học của trẻ. Môn Toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiên cứu có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người. Môn Toán còn là môn học rất cần thiết để học các môn học khác, nhận thức thế giới xung quanh để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Môn Toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận logic, thao tác tư duy cần thiết để nhận thức thế giới hiện thực như: trừu tượng hoá, khái quát hoá, khả năng phân tích tổng hợp, so sánh, dự đoán, chứng minh. Môn Toán còn góp phần giáo dục lý trí và những đức tính tốt như: trung thực, cần cù, chịu khó, ý thức vượt khó khăn, tìm tòi sáng tạo và nhiều kỹ năng tính toán cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới.

Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua hàng loạt các tác động của giáo viên là bản chất của phương pháp giảng dạy mới. Khi nói đến tính tích cực, chúng ta quan niệm là lòng mong muốn hành động được nảy sinh từ phía học sinh, được biểu hiện ra bên ngoài hay bên trong của sự hoạt động.

Một số phương pháp dạy học hiện nay được coi là phương pháp dạy học tích cực là: Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp động não, phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm, phương pháp dạy học kiến tạo, phương pháp dạy học khám phá. Có thể nói phương pháp dạy học khám phá là phương pháp phát huy được tính tích cực, chủ động của bản thân HS trong quá trình lĩnh hội tri thức. Đặc biệt là HS lớp 5 - đối tượng HS có độ tuổi lớn nhất ở cấp Tiểu học, với vốn hiểu biết rộng hơn, khả năng tư duy và năng lực khám phá tốt hơn ở những lớp học dưới nên việc vận dụng phương pháp dạy học khám phá trong các môn học, đặc biệt là môn Toán sẽ có thể nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy. Với những lí do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu Dạy học Toán cho học sinh lớp 5 theo phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn.

Đề tài được tiến hành từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019 với đối tượng là 56 học sinh lớp 5A4 trường tiểu học Định Công - Hoàng Mai - Hà Nội năm học 2018 - 2019, bằng các phương pháp: Nghiên cứu tài liệu, Điều tra  quan sát, Phương pháp thực nghiệm, Phương pháp thống kê và xử lí số liệu.

Phần I I . NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận

 1.1. Ph ươ ng pháp d y h c kh á m ph á

1.1.1. Khám phá trong d ạ y h ọ c

Khám phá [Inquiry] là một quá trình có mục đích của việc chiếm lĩnh tri thức, giải quyết vấn đề. Lý thuyết này là bản kê khai nhiều dạng khám phá khác nhau và chỉ ra con đường tìm kiếm nhằm đạt được mục tiêu đề ra [Wikipedia, The Free Encyclopedia-http//www.google.com/inquiry].

Khám phá là một thuật ngữ sử dùng chủ yếu trong dạy học các môn khoa học trong nhà trường. Nó đề cập đến cách đặt câu hỏi, cách tìm kiếm kiến thức hoặc thông tin, tìm hiểu về các hiện tượng. Nhiều nhà sư phạm tán thành việc dạy các bộ môn khoa học trong các loại hình trường khác nhau cần chú trọng vào hoạt động khám phá.

Khác với KP trong khoa học, KP trong học tập không phải là một quá trình tự phát mà là một quá trình có hướng dẫn của GV, trong đó GV đã khéo léo đặt HS vào địa vị của người phát hiện lại, KP lại tri thức của loài người.

Ví d 1.1 .1 : Bài Diện tích hình tam giác [tiết 86]

- Để hình thành công thức tính diện tích hình tam giác, GV cho HS tự thao tác trên đồ dùng [2 tấm bìa hình tam giác bằng nhau] với định hướng : cắt và ghép hai hình tam giác đó thành một hình chữ nhật [Hình vẽ].

- Yêu cầu HS nhận xét về chiều dài hình chữ nhật ABCD với độ dài đáy DC của tam giác EDC, chiều rộng hình chữ nhật với chiều cao EH của tam giác EDC. [Chiều dài hình chữ nhật ABCD bằng độ dài đáy DC của hình tam giác EDC, chiều rộng hình chữ nhật bằng chiều cao EH của hình tam giác EDC].

- Tiếp tục yêu cầu HS nhận xét về diện tích hình chữ nhật và diện tích hai hình tam giác. [Diện tích hình chữ nhật bằng tổng diện tích 2 hình tam giác ban đầu hay diện tích hình chữ nhật gấp 2 lần diện tích hình tam giác EDC].

Mà diện tích hình chữ nhật ABCD = CD x AD = DC x EH

Vậy diện tích tam giác EDC là

Thông qua một vài hoạt động tự thao tác trên đồ dùng, dưới sự định hướng của GV mà HS có thể nhận biết, khám phá quy tắc và công thức tính diện tích hình tam giác: S = [S là diện tích, a là độ dài đáy, h là chiều cao].

Như vậy, có thể nói KP trong học tập là một quá trình, trong đó dưới vai trò định hướng của người dạy, người học chủ động việc học tập của bản thân, hình thành các câu hỏi đặt ra trong tư duy, mở rộng công việc nghiên cứu, tìm kiếm; từ đó xây dựng nên những hiểu biết và tri thức mới. Những kiến thức này giúp cho người học trả lời các câu hỏi, tìm kiếm các giải pháp khác nhau để giải quyết các vấn đề, chứng minh một định lý hay một quan điểm.[Focus on Inquiry, Alberta, Canada, 2004]

1.1.2. Ho ạ t  độ ng kh á m ph á  c ủ a h ọ c sinh trong h ọ c t ậ p

Các hoạt động khám phá kiến thức trong học tập, tức là khi HS bằng những hành động hay quan sát có định hướng của mình, tập trung vào giải quyết một vấn đề nào đấy đặt trước họ. Nhờ đó HS thu nhận được những tri thức và kĩ năng mới, hoặc đào sâu những tri thức và rèn luyện những kỹ năng đã có. Trong dạy học truyền thống, mọi hoạt động của GV đều tập trung vào truyền đạt đầy đủ những kiến thức đã được quy định trong chương trình. Nên các hoạt động khám phá của HS không được quan tâm, nghiên cứu và vận dụng. Phải từ 40 năm trở lại đây khi phương pháp tích cực ra đời, thì hoạt động khám phá của HS mới được bắt đầu vận dụng trong thực tiễn dạy học.

Các hoạt động được xếp vào hoạt động khám phá, khi bằng các biện pháp tổ chức của GV như: Các dạng câu hỏi, các phiếu học tập, các dạng bài tập,... đòi hỏi HS phải tự lực tác động vào đối tượng, bằng các thao tác quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp, thông qua đó HS khám phá ra được kiến thức mới và kĩ năng mới, hoặc đào sâu những tri thức và rèn luyện những kỹ năng đã có hoặc vận dụng kiến thức vào trong thực tiễn, điều này có nghĩa là: HS trở thành chủ thể của hoạt động giáo dục. HS không học thụ động bằng nghe thầy giảng và truyền đạt kiến thức, mà học tích cực bằng hành động của chính mình. Những hoạt động này có thể thực hiện chung cho cả lớp, trong bài nghiên cứu tài liệu mới hoặc từng nhóm nhỏ trong khâu củng cố kiến thức hoặc từng nhóm cá nhân HS, khi làm bài tập, chuẩn bị bài ở nhà.

Dựa vào mức độ khám phá kiến thức của HS, người ta chia làm 3 mức độ khác nhau của hoạt động khám phá trong học tập theo mức độ khám phá tăng dần:

- Có tính bắt chước: HS lặp lại những điều, mà GV hướng dẫn đầy đủ.

- Có tính luyện tập: Khi thực hiện HS phải sử dụng những kĩ năng đã có.

- Có tính nghiên cứu: HS thu nhận được những kến thức hoàn toàn mới bằng hành động của chính mình như: Tự lực, độc lập, quan sát, làm thí nghiệm, thực hành,...

 1.2. Các hình th c v à  c p độ  c a ho t độ ng kh á m ph á  trong d y h c toán cho h c sinh ti u h c

Tùy theo mức độ, khả năng của HS trong quá trình giải quyết vấn đề cũng như sự can thiệp của GV vào quá trình khám phá của HS mà người ta nói tới cấp độ khác nhau, cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của dạy học khám phá. Có nhiều cách phân chia, nhưng đối với học sinh tiểu học có thể đưa ra các hình thức như sau:

- Tự nghiên cứu khám phá bài toán [khám phá tự do]: Trong tự nghiên cứu vấn đề làm cho tính độc lập của người học được phát huy cao độ. GV chỉ tạo ra tình huống có vấn đề, người học tự nghiên cứu, tự khám phá và giải quyết vấn đề đó. Trong hình thức này, người học độc lập nghiên cứu và thực hiện tất cả các khâu cơ bản của quá trình nghiên cứu này để đưa ra kết quả đồng thời có thể phát triển và ứng dụng được kết quả thu được.

- Phân chia các phần để HS tự khám phá [khám phá có hướng dẫn]: Trong quá trình giải bài toán mà GV đặt ra, người học không hoàn toàn tự giải mà có sự gợi ý thông qua các tình huống thành phần có liên hệ chặt chẽ với tình huống đã đặt ra, HS tự nghiên cứu các tình huống mới nảy sinh. Như vậy, trong hình thức này, HS cần có sự gợi ý của GV để HS khám phá các bài toán nhỏ, đi đến hoàn thành bài tập lớn mang lại kết quả theo yêu cầu.

- GV hướng dẫn từng bước để HS khám phá: Trong hình thức này có mức độ thấp hơn các hình thức trên, ở đây HS không hoàn toàn tự giải quyết được vấn đề mà cần có sự hướng dẫn, định hướng của GV. Ở hình thức này, sự thể hiện khám phá của HS không cao, chỉ mang tính định hướng một cách thức khám phá bài toán, chiếm lĩnh tri thức mới theo từng bước nhỏ. Khám phá có hướng dẫn có hai mức độ: hướng dẫn toàn phần hay hướng dẫn một phần. Sau khi HS đã tham gia nhiều hoạt động khám phá có hướng dẫn, họ có thể đã sẵn sàng cho hoạt động khám phá tự do. Trong khám phá tự do, HS phải tự xác định điều họ muốn nghiên cứu, lựa chọn con đường, giải pháp và tự lực nghiên cứu cho đến khi tìm được kết quả.

Dựa vào các hình thức và các nguyên tắc để xây dựng phương pháp dạy học khám phá ở các cấp độ khác nhau, có thể xác định ba cấp độ của dạy học khám phá trong dạy học toán ở tiểu học như sau:

- Cấp độ 1: Thuyết trình trong hoạt động khám phá: Đây là cấp độ không được quan tâm để ý khi nghiên cứu về PPDHKP. Tuy nhiên, đối với HS trung bình và yếu có hiệu quả cao, nó giúp cho HS phương pháp KP, định hướng con đường khám phá hướng đích. Ở cấp độ này, GV đặt ra tình huống gợi vấn đề, sau đó chính bản thân GV đặt ra vấn đề và trình bày quá trình suy nghĩ giải quyết [chứ không phải đơn thuần nêu lời giải]. GV hướng dẫn cả quá trình tìm kiếm, dự đoán có lúc thành công, có lúc thất bại, phải điều chỉnh phương hướng một hoặc nhiều lần mới đi đến kết quả; trong cả quá trình GV phải phân chia thành nhiều đoạn nhỏ để từ đó gợi cho HS tìm kiến thức có sẵn để khám phá kiến thức tiếp theo. Nói một cách khác, kiến thức được trình bày không phải dưới dạng có sẵn mà là quá trình khám phá ra chúng. Đương nhiên quá trình này chỉ là sự mô phỏng khám phá thực. Ở đây sự khám phá ra kiến thức của HS đôi khi nó không còn mang tính chủ động của HS mà cần có sự hướng dẫn của GV.

Ví d 1.2 .1 : Để hình thành cho HS cách cộng hai số thập phân GV có thể nêu tình huống: Một sợi dây được cắt thành hai đoạn dài 1,45m và 3,43m. Hỏi sợi dây ban đầu dài bao nhiêu mét? Với đối tượng HS yếu hoặc trung bình việc giải quyết vấn đề nêu trên sẽ gặp khó khăn. Khi đó, GV bắt buộc phải gợi mở hướng khám phá thông qua các câu hỏi cụ thể:

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

+ Muốn biết sợi dây ban đầu dài

bao nhiêu mét ta làm thế nào?

+ Để thực hiện tính tổng độ dài hai đoạn dây trên thì ta phải làm thế nào?

+ Tính tổng độ dài của hai đoạn dây.

+ Đổi 1,45m và 3,43m ra đơn vị cm rồi thực hiện cộng hai số tự nhiên. Sau đó, đổi lại đơn vị đo là mét theo yêu cầu đề bài.

Sau khi đã giải quyết được vấn đề nêu trên, GV cho HS nhận xét về cách đặt tính rồi tính của hai phép tính cộng [chú ý vị trí dấu phẩy của các số hạng và tổng]: Từ đó, hình thành quy tắc cộng hai số thập phân.

- Cấp độ 2: Đàm thoại trong hoạt động khám phá: Cấp độ này, HS không hoàn toàn làm việc độc lập mà có sự gợi ý, định hướng của GV. GV định hướng phân chia vấn đề [bài toán] thành hai hoặc nhiều vấn đề thành phần đủ để HS vận dụng kiến thức sẵn có suy nghĩ, khám phá kiến thức mới [vấn đề mới phân chia]. Ở đây, GV không phải phân chia mà bằng gợi ý, phán đoán, đưa ra các khả năng có thể có từ đó HS lựa chọn cho mình cách giải quyết. Trong hình thức này, GV không hướng dẫn quá kĩ, phân chia quá nhỏ nó trở thành cấp độ 1.

Hình thức này, điều quan trọng không phải là những câu hỏi mà là tình huống có vấn đề. Trong giờ học nào đó, thầy giáo có thể đặt nhiều câu hỏi, nhưng nếu câu hỏi này chỉ đòi hỏi tái hiện tri thức đã học thì không phải là dạy học khám phá mà đòi hỏi tạo thành tình huống có vấn đề đó chính là đặc thù của dạy học khám phá. Ngược lại, trong một số trường hợp việc khám phá của HS diễn ra chủ yếu là nhờ tình huống gợi vấn đề, chứ không phải là nhờ những câu hỏi mà GV đặt ra.

Ví d 1. 2.2: [Bài 3, SGK Toán 5, trang 172]: Hai ô tô xuất phát cùng một lúc và đi ngược chiều nhau, sau 2 giờ chúng gặp nhau. Quãng đường AB dài 180km. Tìm vận tốc của mỗi ô tô biết vận tốc của ô tô đi từ A bằng vận tốc ô tô đi từ B.

Đối với bài toán trên, thực tế nhiều HS chưa thể định hướng cách làm vì nó không phải là dạng toán cơ bản. Đó là bài toán hợp của 2 dạng bài toán là: Bài toán ngược của dạng toán hai chuyển động ngược chiều gặp nhau và bài toán dạng tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó.

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

- Từ yêu cầu tìm 2 vận tốc của hai xe,

và từ yếu tố về tỉ số vận tốc của 2 xe, các em liên tưởng đến dạng toán nào?

- Với giả thiết: 2 xe đi ngược chiều, sau 2 giờ gặp nhau và quãng đường AB dài 180km, các em có thể tìm được yếu tố gì?

- Vậy bài toán này đưa về dạng cơ bản nào?

- Tìm hai số khi biết tổng [hiệu] và tỉ số của hai số đó.

- Tìm tổng vận tốc của hai xe. Mỗi giờ cả hai xe đi được số km là:

180 : 2 = 90 [km]

Hay tổng vận tốc của hai xe là 90km/giờ

- Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó.

Khi đã đưa bài toán về dạng cơ bản, HS dễ dàng tìm được lời giải và đáp số của bài toán trên.

- Cấp độ 3: Tự nghiên cứu khám phá: Khi nói tới dạy học khám phá thì ta nghĩ tới phương pháp HS tự nghiên cứu, GV chỉ đóng vai trò đưa ra tình huống có vấn đề [tương tự như GV đưa ra bài toán và HS tự giải được bài toán đó]. Như thế đã đi xa bản chất của dạy học khám phá. Vai trò của GV có thể định hướng cho học sinh tiếp tục khám phá vấn đề bằng con đường khác, tiếp tục khám phá mở rộng tình huống có vấn đề đã nêu.

Ví d 1 .2.3: [Bài 2, SGK Toán 5, trang 171]: Mẹ mua gà và cá hết 88 000 đồng. Số tiền mua cá bằng 120% số tiền mua gà. Hỏi mẹ mua cá hết bao nhiêu tiền?

Đối với HS khá, giỏi có thể tự nghiên cứu đề bài, vận dụng kiến thức đã có để đưa ra lời giải không mấy khó khăn. [HS chuyển 20% về dạng tỉ số là , rồi đưa bài toán về dạng Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó, từ đó dễ dàng tìm được lời giải và đáp số của bài toán]

Tuy nhiên, nếu GV dừng bài toán tại đây và ra bài toán khác để HS làm tiếp thì chưa hoàn thiện cấp độ này trong DHKP. Trong trường hợp này, GV tiếp tục định hướng sự khám phá cho HS qua các hoạt động như:

+ Hoạt động 1: Khám phá tìm lời giải mới.

Coi số tiền mua gà là 100% thì số tiền mua cá là 120%

Số tiền mua gà và cá là: 100% + 120% = 220%

Khi đó số tiền mua gà là: 88 000 : 220 x 100 = 40 000[đồng]

Số tiền mua cá là: 88 000 - 40 000 = 48 000 [đồng]

+ Hoạt động 2: HS khám phá phát triển bài toán theo các hướng hình thành bài toán khác tương tự với bài toán trên. Chẳng hạn:

Bài 1: Một cửa hàng bán hoa quả thu được 1 800 000 đồng. Tính ra số tiền lãi bằng 20% số tiền mua. Tính số tiền vốn để mua số hoa quả đó.

Bài 2: Một lớp học có 48 học sinh. Trong đó số học sinh nam bằng 60% số học sinh nữ. Hỏi số nữ hơn số nam là bao nhiêu em?

Trong quá trình soạn giáo án, GV cần chuẩn bị kĩ càng hơn các bài toán, các cách cung cấp kiến thức mới theo hướng phát huy tính tích cực của HS, để học sinh tự khám phá các tình huống nêu lên.

B ng 1: C á c m c độ  c a d y h c kh á m ph á

Mức độ

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

DH khám phá

1

Nêu các hoạt động để HS thực hiện

Hoạt động theo hướng dẫn của GV để đạt mục đích

Khám phá có hướng dẫn toàn phần

2

Đặt vấn đề, để ngỏ phương pháp giải

Tự tìm lấy con đường để giải

Khám phá có hướng dẫn một phần

3

Chọn tình huống xuất phát hay chấp nhận sự lựa chọn của HS

Xác định vấn đề trong tình huống, tìm lời giải theo con đường của mình

Khám phá tự do

2. Thực trạng

Năm học 2018-2019, tôi được phân công làm giáo viên chủ nhiệm lớp 5a4. Lớp tôi có 56 học sinh, trong đó có 27 học sinh nam và 29 học sinh nữ.

Về hoàn cành, các em có hoàn cảnh gia đình khác nhau, tuy nhiên có những học sinh có hoàn cảnh khó khăn [Trần Ngọc Kiều Phương: ở với mẹ đơn thân trong điều kiện khó khăn, Hoàng Mạnh Phú: gia đình thuộc hộ nghèo, Phạm Hà Linh: mắc bệnh hiểm nghèo]; nhiều gia đình không có thời gian quan tâm chăm sóc đến con [bận công việc, bố mẹ li dị,...]; trong khi một số gia đình thì quá cưng chiều con [gia đình con một,...]. Những điều này có ảnh hưởng không tích cực đến suy nghĩ, hành động, khả năng tiếp thu, khả năng tự học, khả năng hoạt động tương tác với cô với bạn của các em. Một số em có chiều hướng tự ti, nhút nhát, khép mình với các bạn, không chủ động trong hoạt động học tập. Một số bạn lại tỏ ra ương bướng, không hợp tác trong các hoạt động với bạn, với cô. Số khác lại chủ quan, cẩu thả, quá tự tin vào khả năng của mình, thiếu kiên nhẫn khi tham gia hoạt động học;...

Về sức học, các em có học lực không đồng đều, một số em có học lực tương đối tốt và đều ở các môn học [Diệu Trúc, Thùy Linh, Hà Linh,...]; một số em học lệch [Đức Trung, Việt Anh, Phương Uyên,...]; đa số các em có lực học trung bình  khá; còn lại một số rất yếu [trong đó có một bạn khuyết tật trí tuệ]. Từ những chênh lệch này cũng dẫn đến tốc độ tiếp thu, thực hiện và hoàn thành hoạt động khác nhau ở mỗi học sinh. Các em học tốt hơn thường hoàn thành nhiệm vụ học tập nhanh hơn, hứng thú hơn, tập trung và chủ động hơn trong các hoạt động; thích tìm tòi khám phá hơn. Các em học yếu hơn thì chậm hơn khi thực hiện các nhiệm vụ học tập, ít hứng thú, lười tìm tòi, thắc mắc.

Về đặc điểm lứa tuổi, các em đã bước vào năm cuối cùng của bậc Tiểu học, nhiều học sinh đã bước vào tuổi dậy thì, tâm sinh lí có nhiều thay đổi, rất nhạy cảm với các yếu tố tác động xung quanh. Các em thường chia nhóm để vui chơi [nhóm theo vị trí địa lí: gần nhà; nhóm theo sở thích; theo hoàn cảnh;...]. Điều này vừa có mặt tích cực nhưng cũng có mặt tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình học tập của học sinh trên lớp, đặc biệt khi hoạt động nhóm. Một số học sinh thích làm việc với nhau và hoạt động ăn ý; một số khác không thích hợp tác với nhau, hoạt động rời rạc, không thống nhất trong nhóm, hiệu quả không cao.

56 học sinh là 56 hoàn cảnh, 56 nét tính cách khác nhau. Vậy làm thế nào để tìm được phương pháp phù hợp với cả lớp? Làm thế nào giúp tất cả các em cùng tiến bộ? Làm thế nào để xây dựng và phát triển cho các em năng lực học tập? Đó cũng chính là những băn khoăn để tôi tìm tòi và rút ra kinh nghiệm về dạy học Toán cho các em theo phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn.

3. V n d ng ph ươ ng pháp d y h c kh á m ph á c ó h ướ ng d n trong m t s t ì nh hu ng d y h c to á n l p 5

 3.1. D y h c kh á i ni m theo PPDH kh á m ph á  c ó  h ướ ng d n

3.1.1. Mục tiêu

Vận dụng phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn để hình thành một số khái niệm trong môn toán lớp 5 cho HS, đảm bảo cho HS đạt được các yêu cầu: nhận dạng, phát biểu, phân loại, vận dụng các khái niệm này.

3.1.2. Cách tiến hành

Quy trình dạy học khái niệm theo phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn có thể được tiến hành như sau:

B ướ c 1. Gợi hứng thú, dẫn học sinh vào khái niệm: giúp học sinh tiếp cận khái niệm, có thể thực hiện được bằng cách thông qua một ví dụ hoặc một hiện tượng có trong thực tiễn,...

B ướ c 2. Hình thành khái niệm: Thông qua các hoạt động trải nghiệm và khám phá giúp học sinh có được khái niệm, có thể thực hiện được bằng cách khái quát hoá,...

B ướ c 3. Củng cố khái niệm: Thông qua các hoạt động nhận dạng, thể hiện, ngôn ngữ. Khắc sâu kiến thức thông qua ví dụ và phản ví dụ.

B ướ c 4. Vận dụng: Bước đầu vận dụng khái niệm trong bài tập đơn giản, bài tập tổng hợp.

3.1.3. Ví dụ

H ì nh th à nh kh á i ni m v n t c [B à i V n t c, trang 138, SGK Toán 5]

Đối với HS lớp 5, các em được làm quen với khái niệm vận tốc trong chuyển động thẳng đều. Ta có thể vận dụng PPDHKP có hướng dẫn để hình thành khái niệm vận tốc cho HS theo hướng quy nạp.

B ướ c 1: Gợi hứng thú và dẫn dắt HS vào khái niệm

Xuất phát từ bài toán thực tế: Một ô tô đi được quãng đường dài 170km trong 4 giờ. Hỏi trung bình mỗi giờ ô tô đó đi được bao nhiêu km?

B ướ c 2: Hình thành khái niệm vận tốc

HS đọc đề bài và phân biệt được những yếu tố đã cho với yếu tố phải tìm. Nhận biết được bài toán thuộc dạng toán quen thuộc [Tìm số trung bình cộng] HS dễ dàng giải bài toán trên :

Trung bình mỗi giờ ô tô đi được là : 170 : 4= 42,5 [km]

Đáp số : 42,5km.

GV giới thiệu: Trung bình mỗi giờ ô tô đi được 42,5km. Ta nói vận tốc trung bình hay nói tắt là vận tốc của ô tô là bốn mươi hai phẩy năm ki-lô- mét giờ, viết tắt là 42,5 km/giờ. Vậy vận tốc của ô tô là : 170 : 4 = 42,5 [km/giờ]

GV đặt câu hỏi ngược lại:

- Vậy vận tốc là gì ? [Vận tốc là quãng đường đi được trong một đơn vị thời gian]

- Muốn tính vận tốc ta làm như thế nào ? [Muốn tính vận tốc ta lấy quãng đường chia cho thời gian]

B ướ c 3: Củng cố khái niệm

Đây cũng là bước GV giúp HS phát huy khả năng sáng tạo và năng lực khám phá như: Trong các phát biểu dưới đây, phát biểu nào là đúng?

a] Ca nô đi được quãng đường 72km trong 3 giờ thì vận tốc của ô tô là: 72km/giờ.

b] Trong 1 phút, ốc sên bò được quãng đường là 12cm thì vận tốc của ốc sên là 12cm/phút.

c] Đại bàng bay được 96km trong 1 giờ thì vận tốc bay của đại bàng là 96km/giờ.

d] Một xe máy đi qua một chiếc cầu dài 1250m hết 2 phút thì vận tốc của xe máy là 1250m/phút.

Dựa vào khái niệm vận tốc đã nêu ở trên, HS nhận dạng được đáp án b, c là phát biểu đúng về vận tốc. Lúc này, GV cần nhấn mạnh một lần nữa:

Vận tốc là quãng đường đi được trong một đơn vị thời gian.

- Trong trường hợp [a] thì vận tốc của ca nô là bao nhiêu, trường hợp [d] vận tốc của xe máy là bao nhiêu ? Khi đó, HS phải tính được quãng đường ca nô đi trong 1 giờ, hay quãng đường xe máy đi trong 1 phút. Tiếp theo, GV yêu cầu HS lấy VD minh hoạ cho khái niệm vận tốc.

B ướ c 4: Vận dụng

Để củng cố vững chắc hơn nữa khái niệm vận tốc, GV yêu cầu HS lấy ví dụ minh hoạ. Trong trường hợp HS không tự lấy được VD minh hoạ, GV có thể đưa ra một số VD trong đó có yêu cầu tính vận tốc của 1 động tử nào đó.

 3.2. D y h c quy t c, ph ươ ng pháp theo ph ươ ng pháp d y h c khám phá có h ướ ng d n

3.2.1. Mục tiểu

Vận dụng phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn để hình thành một số quy tắc, phương pháp giải toán trong môn toán lớp 5 cho HS, đảm bảo cho HS đạt được các yêu cầu: nắm vững và sử dụng linh hoạt các quy tắc, phương pháp này.

3.2.2. Cách tiến hành

Quy trình chung dạy học quy tắc toán học ở lớp 5 theo phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn có thể tiến hành như sau:

B ướ c 1: Gợi động cơ, tạo hứng thú và hướng đích khám phá

Nêu một tình huống thực tế [dưới dạng 1 ví dụ, một bài toán], khi giải quyết vấn đề của tình huống đó đòi hỏi phải thực hiện theo một công thức, hay một quy tắc mới cần khám phá.

B ướ c 2: Trải nghiệm

Mục đích của hoạt động này là nhằm huy động vốn hiểu biết, kinh nghiệm sẵn có của học sinh để chuẩn bị cho chủ đề cần khám phá.

B ướ c 3: Phân tích, khám phá

Cho HS dự đoán kết quả. GV dùng các câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, đánh giá để giúp HS thực hiện tiến trình khám phá.

B ướ c 4: Rút ra kiến thức mới

Yêu cầu HS tự rút ra quy tắc dựa trên các nội dung đã khám phá ở trên, GV chốt quy tắc và công thức chuẩn rồi cho HS vận dụng vào một vài VD để củng cố vững chắc quy tắc hoặc công thức vừa hình thành.

3.2.3. Ví d ụ : Dạy học hình thành quy tắc tính diện tích hình thang [Bài Diện tích hình thang, trang 93, SGK Toán 5]

B ướ c 1: Gợi động cơ, tạo hứng thú và hướng đích khám phá.

Trên thực tế có những thửa ruộng hay những mảnh đất hình thang, muốn tính diện tích của thửa ruộng hay những mảnh đất hình thang đó thì người ta làm thế nào để tính nhanh nhất. Bài học hôm nay sẽ giúp các em có thêm kiến thức về tính diện tích hình thang.

B ướ c 2: Trải nghiệm

Từ tấm bìa hình thang mà HS đã chuẩn bị, GV yêu cầu HS vẽ đường cao. Sau đó yêu cầu HS suy nghĩ và tìm cách cắt ghép tấm bìa đó thành tấm bìa bất kì mà em đã biết cách tính diện tích.

HS được trải nghiệm và thực hành trên vật thật, đưa về hình cơ bản là hình tam giác hoặc hình chữ nhật vì những hình này HS đã biết được cách tính diện tích [Hình vẽ].

B ướ c 3: Phân tích, khám phá

GV hướng dẫn HS hình thành quy tắc tính diện tích hình thang theo một trong hai cách. Đối với cách hình thành dựa trên diện tích hình tam giác thì SGK đã hướng dẫn khá kĩ. Để phát huy khả năng sáng tạo, cũng như năng lực khám phá của HS, GV có thể lựa chọn cách dựa trên công thức tính diện tích hình chữ nhật. Cụ thể như sau:

+Yêu cầu HS so sánh diện tích hình thang ABCD với diện tích hình chữ nhật MNPQ. [Hình chữ nhật MNPQ được cắt ghép từ hình thang ABCD nên hai hình có diện tích bằng nhau

- Yêu cầu HS viết ra công thức tính diện tích hình chữ nhật MNPQ

S= MN x MQ [2]

- Hãy so sánh độ dài MQ và AH [ MQ = AH]

- Tìm mối quan hệ giữa MN với 2 đáy của hình thang ABCD. B ướ c 4 : Hình thành kiến thức mới

Yêu cầu HS phát biểu quy tắc tính diện tích hình thang dựa theo công thức trên: Diện tích hình thang bằng tổng độ dài hai đáy nhân với chiều cao [cùng một đơn vị đo] rồi chia cho 2.

Như vậy, với gợi ý của GV là trong bài toán đã cho có những hình cơ bản nào HS sẽ dựa vào đó để tìm tòi, phán đoán và khám phá ra các cách làm khác nhau nhằm phát huy tính tích cực của các em. Sau khi GV hướng dẫn HS theo phương pháp tìm đoán, quy lạ về quen, HS có thể vận dụng làm được nhiều bài tương tự mà không theo một công thức hay một quy tắc nào. Đặc biệt đối với những bài toán liên quan đến diện tích các hình, GV nên nhấn mạnh cho HS một trong những phương pháp khám phá cách giải bài toán đó là kẻ, vẽ thêm hình hoặc cắt ghép hình.

 3.3. D y h c gi i to á n theo ph ươ ng pháp d y h c kh á m ph á  c ó h ướ ng d n

Giải toán có lời văn ở Tiểu học là cầu nối giữa kiến thức toán học trong nhà trường và ứng dụng của toán học trong đời sống thực tế.

3.3.1. Mục tiêu

Vận dụng phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn giúp HS hiểu và vận dụng các phương pháp giải toán để giải được các bài toán cụ thể, gắn với thực tế cuộc sống.

3.3.2. Cách tiến hành

Các bài giải toán ở lớp 5 chủ yếu là các bài toán hợp, việc giải bài toán cũng có nghĩa là giải các bài toán đơn. Mặt khác, các bài toán thường là những dạng toán được học từ lớp dưới như: Tìm số trung bình cộng; Tìm hai số khi biết tổng [hiệu] và tỉ số của hai số đó; Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó; Bài toán liên quan đến tỉ lệ ; ...

Quy trình vận dụng PPDHKP có hướng dẫn trong tình huống dạy học giải toán có thể tiến hành như sau:

B ướ c 1: Gợi động cơ, tạo hứng thú và hướng đích khám phá

Đây cũng có thể coi là bước tìm hiểu nội dung đề bài. Ở bước này, GV có thể GV có thể định hướng HS: Phát biểu đề bài dưới những dạng thức khác nhau để hiểu rõ nội dung bài toán. Có thể dùng công thức, kí hiệu, hình vẽ để hỗ trợ cho việc diễn tả đề bài.

B ướ c 2: Trải nghiệm

Ở bước này, GV phải giúp HS phân biệt cái đã cho với cái phải tìm,phải chứng minh, mối quan hệ giữa những yếu tố đó với những yếu tố liên quan, nhận dạng dạng toán liên quan đã học.

B ướ c 3: Phân tích, khám phá

HS tìm tòi, phát hiện cách giải nhờ những suy nghĩ có tính chất tìm đoán; biến đổi cái đã cho, biến đổi cái phải tìm, liên hệ cái đã cho hoặc cái phải tìm với những tri thức đã biết, liên hệ bài toán cần giải với một bài toán cũ tương tự, một trường hợp riêng, một bài toán tổng quát hơn hay một bài toán nào đó có liên quan, sử dụng những phương pháp đặc thù với từng dạng toán,... Ở bước này, vai trò định hướng, hỗ trợ của GV vô cùng quan trọng.

Tuỳ thuộc vào khả năng khám phá của từng đối tượng HS mà GV đưa ra các câu hỏi gợi mở mang tính chất định hướng như thế nào cho phù hợp. Đối với đối tượng HS giỏi, GV có thể cho các em tự khám phá các cách giải của bài toán. Đối tượng còn lại, GV có thể sử dụng các câu hỏi gợi mở tuỳ mức độ từ khái quát đến chi tiết để HS phát huy năng lực khám phá của bản thân.

Kiểm tra lời giải bằng cách xem lại kĩ từng bước thực hiện hoặc đặc biệt hoá kết quả tìm được hoặc đối chiếu kết quả với một số tri thức có liên quan,... Tìm tòi những cách giải khác, so sánh chúng để tìm được cách giải hợp lí nhất.

B ướ c 4: Hoàn chỉnh lời giải và mở rộng bài toán

Từ cách giải đã được phát hiện, sắp xếp các việc phải làm theo một chương trình gồm các bước theo một trình tự thích hợp và thực hiện các bước đó. Nghiên cứu khả năng ứng dụng kết quả của lời giải. Nghiên cứu giải những bài toán tương tự, mở rộng hay lật ngược lại vấn đề.

3.3.3. Ví dụ

Có nhiều dạng bài trong nội dung giải toán có lời văn ở lớp 5, nhưng có những dạng bài toán HS đã được học ở các lớp dưới như: Bài toán liên quan đến tỉ số. Đối với những bài toán này, HS tương đối thành thạo trong giải toán nên việc phát huy khả năng sáng tạo và năng lực khám phá có thể không nhiều. Trong khuôn khổ sáng kiến này, tôi xin được nêu ra một số ví dụ điển hình liên quan đến một số dạng bài giải toán có lời văn ở lớp 5 mà HS thường gặp khó khăn:

* Gi i to á n v  t  s  ph n tr ă m:

Ngay từ bài dạy đầu tiên về tỉ số phần trăm, GV cần cho HS thấy nội dung này rất gắn với thực tế cuộc sống để kích thích sự tò mò, muốn hiểu biết của các em. Theo đó, thầy cô có thể cho các em đọc một số mẩu tin trên báo chí có liên quan đến tỉ số phần trăm, chẳng hạn như: Đợt sâu rầy vừa qua đã làm thiệt hại khoảng 20% diện tích trồng lúa của tỉnh N.; Thuế nhập khẩu đường tăng tối đa thêm 25%; hay thực tế hơn Theo thống kê kiểm tra giữa học kì I vừa qua ở trường ta, số học sinh đạt điểm giỏi môn Tiếng Việt chiếm tỉ lệ 25%... Chắc chắn sẽ có rất nhiều HS, thậm chí có khi cả lớp không biết đọc kí hiệu %. Đây chính là lợi thế để GV tạo hứng thú cho HS tìm hiểu điều mới lạ nhưng gắn với đời sống.

Các đề bài toán trong SGK thường khó hiểu với HS bởi các nội dung lạ lẫm như: Sản phẩm đạt chuẩn, lượng muối trong nước biển, vượt mức kế hoạch... Chính vì thế GV cần giảng giải để HS hiểu rõ nội dung đề bài thì các em mới có thể giải được. Với các bài có nội dung tiền vốn, tiền lãi, tiền bán, đa số thầy cô nghĩ rằng HS đã biết nhưng thực tế chỉ có các em gia đình kinh doanh, buôn bán mới biết, còn khá nhiều HS không biết tiền lãi bằng tiền bán trừ tiền vốn, tiền bán bằng tiền vốn cộng tiền lãi, tiền vốn bằng tiền bán trừ tiền lãi. GVcần giải thích rõ bằng các ví dụ cụ thể về tiền vốn, tiền bán, tiền lãi trước khi làm các bài toán về tỉ số phần trăm thì HS mới có thể dễ dàng làm bài. Với bài toán có nội dung lãi suất ngân hàng cũng thế, HS rất mù mờ, có em còn nêu thắc mắc: Tiền mình gửi trong ngân hàng làm sao ra tiền lời?. Do đó, GV đừng sợ mất thời gian, rất cần thiết giải thích thấu đáo cách kinh doanh của ngân hàng cho HS rõ. Các em có hiểu biết mới có thể giải tốt bài tập.

Tỉ số phần trăm xuất hiện rất nhiều trong việc tìm hiểu, đánh giá các vấn đề, các ngành nghề trong xã hội. Chính vì thế, HS học tốt về toán tỉ số phần trăm không chỉ để đạt kết quả tốt khi làm bài mà nó còn giúp các em tăng vốn kiến thức về thực tế đời sống sau này.

Dưới đây là VD minh hoạ cho PPDHKP có hướng dẫn vào trong nội dung giải toán về tỉ số phần trăm.

B à i 4, SGK To á n 5, trang 176]: Một cửa hàng bán hoa quả [trái cây] thu được 1 800 000 đồng. Tính ra số tiền lãi bằng 20% số tiền mua. Hỏi tiền vốn để mua số hoa quả đó là bao nhiêu đồng?

B ướ c 1: Gợi động cơ, tạo hứng thú và hướng đích khám phá

GV yêu cầu HS đọc kĩ đề toán. HS nhận thấy nội dung bài toán gần gũi với đời sống - dạng toán tiêu dùng. Điều này sẽ tạo hứng thú khiến các em quan tâm hơn, tập trung hơn vào bài và có nhu cầu muốn khám phá cách giải của bài toán.

B ướ c 2: Trải nghiệm

GV tổ chức cho HS trải nghiệm thông qua các câu hỏi:

- Bài toán cho biết gì? [Số tiền bán hoa quả là 1 800 000 đồng, số tiền

lãi bằng 20% số tiền mua]

- Bài toán hỏi gì? [Hỏi tiền vốn để mua số hoa quả đó là bao nhiêu

đồng?]

HS được trải nghiệm qua thực tế và nêu được mối liên hệ giữa 3 yếu tố: tiền bán = tiền lãi + tiền vốn mua

B ướ c 3: Phân tích, khám phá

Sau khi trả lời được các câu hỏi trên HS sẽ tự khám phá nhận dạng bài toán, tìm tòi cách giải của bài toán. Ở bước này GV có thể tiến hành linh hoạt theo các mức độ sau:

- Đối với những HS giỏi: GV có thể cho HS tự khám phá, tìm tòi lời giải cho bài toán bằng các cách khác nhau.

- Đối với đối tượng còn lại: GV có thể hướng dẫn cho HS tự khám phá lời giải thông qua các câu hỏi gợi mở:

+ Bài toán thuộc dạng toán nào? [Giải toán về tỉ số phần trăm]

+ Em hiểu ý nghĩa của câu "Số tiền lãi bằng 20 % số tiền mua" như thế nào? [Nếu coi số tiền mua là 100% thì số tiền lãi chiếm 20%]

+ Khi đó số tiền bán chiếm bao nhiêu phần trăm số tiền mua? [120%]

+ Lúc này, HS sẽ nhận thấy bài toán đưa về dạng cơ bản là tìm một số biết 120% của nó là 1800 000 đồng. [Đây chỉ là một trong rất nhiều các cách định hướng giải cho bài toán trên]

B ướ c 4: Hoàn chỉnh lời giải cho bài toán, mở rộng bài toán

Nếu chỉ dừng lại ở các bước gợi mở như trên thì khả năng khám phá của HS sẽ bị hạn chế. Vì thế, GV có thể cho HS có thêm thời gian để khám phá ra những cách giải khác. Việc làm này giúp các em một lần nữa kiểm tra lại kết quả của mình. Hoặc tìm kiếm, xây dựng những bài toán có dạng tương tự để củng cố vững chắc cách giải của dạng toán này.

3.4. M t s  l ư u ý  trong t  ch c ho t độ ng kh á m ph á  cho h c sinh trong d y h c m ô n To á n l p 5

Không có một phương pháp dạy học nào là vạn năng. Phương pháp dạy học khám phá cũng vậy. Bên cạnh rất nhiều ưu điểm thì phương pháp này vẫn có những hạn chế nhất định: Khi thực hiện hoạt động khám phá, HS phải mất rất nhiều thời gian.

Phương pháp dạy học nào cũng vậy, nó chỉ phát huy tính tích cực của nó khi được GV sử dụng một cách linh hoạt, sáng tạo. Do đó, khi thực hiện phương pháp dạy học khám phá, GV cần lưu ý một số điểm sau:

- Phải chú ý ngay từ việc thiết kế, xây dựng kế hoạch cho bài dạy. Nghiên cứu kĩ nội dung bài học, tìm kiếm các tình huống có vấn đề, tạo cơ hội cho HS tìm tòi, khám phá tri thức. Phải tập trung vào việc nghiên cứu, thiết kế các hoạt động của HS trước, trên cơ sở đó mới xác định hoạt động chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn của GV. Thiết kế các hoạt động phải đảm bảo tính hệ thống, logic ở phần trước, bài trước, phải đặt trong mối liên hệ với phần sau,bài sau, đồng thời phải mang tính vừa sức, tạo hứng thú nhận thức, kích thích sự tìm tòi sáng tạo của HS.

- GV phải chú ý đến yếu tố tâm lí của cá nhân cũng như tập thể HS. Số lượng hoạt động và mức độ tư duy trong mỗi tiết học phải phù hợp với trình độ HS để có đủ thời gian tổ chức hoạt động tìm tòi, khám phá.

- Sự hướng dẫn của GV cho mỗi hoạt động phải ở mức cần thiết mới lôi cuốn được HS. Khi yêu cầu HS chuẩn bị và tham gia các hoạt động để từ đó lĩnh hội kiến thức, GV cần định hướng rõ chủ đề khám phá.

- GV phải giám sát việc thực hiện các hoạt động của HS, phát hiện kịp thời những cá nhân, nhóm đi chệch hướng, phải cho các HS thông báo sơ bộ kết quả thu được, trên cơ sở đó hướng dẫn cho các em đi tới mục tiêu đã định.

- Trong các hoạt động khám phá cần kết hợp phương pháp sử dụng câu hỏi với các bài tập như: lập sơ đồ, bảng, giải bài toán...để nâng cao hiệu quả tổ chức công tác tự làm việc của HS.

- Việc đưa ra các hoạt động phải thu hút sự chú ý, kích thích hoạt động chung của cả lớp và GV nên để 1 thời gian thích hợp để HS phát huy năng lực khám phá và cần bảo đảm cho HS bình đẳng trong việc tham gia hoạt động.

- Phối hợp linh hoạt giữa PPDH khám phá với các PP dạy học khác nhằm phát huy hứng thú học tập ở HS, tránh sự lặp đi lặp lại một cách nhà chán một PPDH nhiều lần trong một giờ học hoặc trong nhiều bài liên tiếp.

Phần I II . KẾT LUẬN

1. Kết quả

Qua giảng dạy với tiêu chí luôn đặt sự chủ động học tập của học sinh để giúp các em xây dựng và phát triển năng lực học tập trong đó có năng lực học toán, sau gần một năm học vận dụng dạy học khám phá có hướng dẫn với nhiều bài học môn toán tôi nhận thấy lớp 5A4 đã có nhiều thay đổi tiến bộ.Cụ thể:

Học sinh tích cực chủ động hơn trong giờ học.

Nhiều học sinh có biểu hiện ham học, ham tìm hiểu hơn.

HS tỏ ra hứng thú hơn khi được trực tiếp khám phá tri thức thông qua các hoạt động khám phá, tìm tòi kiến thức mới dưới sự thiết kế, tổ chức, điều khiển và hướng dẫn của GV.

Thiết kế và tổ chức hoạt động dạy học theo PPDHKP có hướng dẫn đã góp phần làm cho hệ thống tri thức và kĩ năng hình thành ở HS mang tính hệ thống, vững chắc hơn.

Các năng lực khám phá của HS được hình thành một cách bền vững thể hiện ở tỉ lệ làm được các bài tập của HS càng về cuối năm học càng tốt hơn.

HS hứng thú, chủ động, tích cực và tự giác học tập, thể hiện được vai trò trung tâm của của HS - cho phép khẳng định tính hiệu quả của PPDH khám phá.

Trên đây là một số kinh nghiệm vận dụng dạy học khám phá có hướng dẫn trong môn toán cho học sinh lớp 5A4 năm học 2018  2019. Là một giáo viên tôi không mong muốn gì hơn là góp một phần nhỏ bé của mình để xây dựng, củng cố và phát triển cho học sinh năng lực học tập, khả năng tự học, tự nhận thức, để các em có đủ hành trang, tự tin vững bước trên con đường học vấn, không chỉ cho hiện tại mà cho cả tương lai.

Kết quả vận dụng phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn vào dạy học toán 5 còn được thể hiện qua bảng sau:

STT

Nội dung

Đầu năm học

Cuối năm học

SL

%

SL

%

1

HS có hứng thú với môn Toán

20

35,7

48

85,7

2

HS có khả năng phát biểu và vận dụng được các khái niệm đã học

30

53,6

50

89,3

3

HS có khả năng vận dụng các quy tắc, phương pháp giải toán đã học

32

57,1

51

91,1

4

HS có khả năng giải các bài toán có lời văn gắn với thực tế cuộc sống

28

50

49

87,5

Bảng 2. Kết quả so sánh một số biểu hiện của HS

2. Khuyến nghị

* Khuyến nghị đối với các cấp quản lí giáo dục:

- Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo:

+ Cần xây dựng hoàn thiện chương trình giáo dục mới theo định hướng phát triển năng lực học sinh, trong đó năng lực tự học là một thành tố của các hệ thống năng lực đầu ra của học sinh.

+ Cần tổ chức biên soạn sách giáo khoa mới theo hướng giảm tính hàn lâm khoa học, tăng tính thực hành, tích hợp với các nội dung gần gũi với cuộc sống. Việc biên soạn sách giáo khoa theo hình thức tài liệu hướng dẫn tự học có thể là một phương án khả thi cần được quan tâm.

+ Cần có các chiến lược dạy học cụ thể cho việc phát triển năng lực tự học cho học sinh, tạo các hành lang pháp lí, cơ sở vật chất nhằm xây dựng môi trường lớp học, trường học, chế độ cho giáo viên đáp ứng các yêu cầu đổi mới giáo dục và hiện đại.

- Đối với cấp quản lí sở giáo dục và phòng giáo dục:

+ Cần xây dựng các chuyên đề chuyên môn về dạy học tăng cường năng lực học tập cho HS.

+ Tổ chức hội nghị, hội thảo rút kinh nghiệm trong quản lý, chỉ đạo dạy học tăng cường năng lực học tập, bàn giải pháp khắc phục khó khăn để thực hiện tốt chủ trương này.

+ Tổ chức tham quan, trao đổi, học tập kinh nghiệm giữa các trường và các địa phương về phương pháp tổ chức dạy học tăng cường năng lực học tập cho HS, trong đó có phương pháp dạy học khám phá.

- Đối với các hiệu trưởng nhà trường:

+ Thực hiện tốt công tác tuyên truyền đến giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh và xã hội về mục đích, ý nghĩa của việc dạy học theo hướng lấy HS làm trung tâm, trong đó có vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học khám phá.

+ Xây dựng kế hoạch, theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong nhà trường.

+ Chuẩn bị cơ sở vật chất và bố trí đội ngũ giáo viên hợp lí.

+ Theo dõi thường xuyên việc thực hiện kế hoạch dạy học của giáo viên.

- Tất cả các cấp quản lý cần thay đổi cách dự giờ, cách đánh giá giáo viên khi đứng lớp. Cách dự giờ mới, cán bộ quản lí cần đến từng bàn học sinh để theo dõi quá trình các em làm việc, tập trung quan sát hoạt động học của học sinh, hoạt động tổ chức, hỗ trợ của giáo viên.

* Khuyến nghị đối với giáo viên:

- Tự mình thay đổi cách dạy, phương pháp dạy, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để tổ chức hoạt động học tập cho học sinh một cách tốt nhất. Chú ý làm tốt việc tổ chức học tập theo nhóm cho học sinh.

- Thực hiện tốt việc theo dõi tiến độ học tập của học sinh để hỗ trợ, điều chỉnh ngay trong từng hoạt động học để các em học đâu biết đấy, học đâu chắc đấy, học đến đâu được thực hành và ứng dụng ngay đến đấy không để học sinh bị bỏ quên trong lớp học.

- Chủ động điều chỉnh tiến độ, thời gian và các nội dung dạy học cần thiết để dạy học sao cho phù hợp nhất đối với học sinh của mình. Nhất là chú trọng đến việc điều chỉnh phương thức hoạt động để hướng dẫn tự học tốt hơn và tăng cường kiến thức đời sống để nội dung học tập của học sinh gần gũi, gắn bó với thực tế đời sống học sinh địa phương.

- Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ đối với gia đình học sinh để hỗ trợ các em học tập tốt hơn.

Quận Hoàng Mai

In bài viết

Gửi mail     Các tin khác

  • Hội nghị giao ban Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở quý III, triển khai nhiệm vụ 3 tháng cuối năm 2021
  • Hội nghị giao ban Ban chỉ đạo công tác tôn giáo Quý III, triển khai nhiệm vụ quý IV/2021
  • Tổ chuyên môn trường Mầm non Hoàng Văn Thụ tập huấn cập nhật kỹ năng CNTT vào công tác thiết kế trang Web, lập biểu mẫu và quy trình xây dựng video chuẩn phục vụ công tác giáo dục trẻ
  • Hoạt động của Hội Cựu thanh niên xung phong quận Hoàng Mai quý III/2021
  • Gặp mặt kỷ niệm Ngày truyền thống các ban xây dựng Đảng và Văn phòng cấp ủy
  • Trường THCS Mai Động: Yến Nhi - Cánh én nhỏ giữa bầu trời rộng lớn
  • Kết luận của đồng chí Đỗ Thanh Tùng - PCT UBND Quận tại cuộc họp...  [19/10/2021]
  • Kết luận của đồng chí Đỗ Thanh Tùng - PCT UBND Quận tại cuộc họp...  [12/10/2021]
  • Kết luận tại cuộc họp về thi công dự án Xây dựng khu tái định cư và nhà ở...  [08/10/2021]
  • Kết luận của đồng chí Đỗ Thanh Tùng - PCT UBND Quận tại cuộc họp...  [05/10/2021]    Hiển thị thêm
  • Phân công lịch trực, đảm bảo an ninh trật tự trong dịp nghỉ lễ Quốc khánh 02/9 năm 2021   [30/08/2021]
  • Thông báo tuyển sinh lớp tiếng Anh giao tiếp dành cho người khuyết tật, con của người khuyết tật...   [20/08/2021]
  • Thông báo tuyển sinh lớp cắm tỉa hoa nghệ thuật dành cho người khuyết tật, con của người khuyết...   [20/08/2021]
  • Thông báo tuyển sinh lớp làm bánh năm 2021   [20/08/2021]
  • Thông báo tuyển sinh lớp pha chế đồ uống năm 2021   [20/08/2021]

Hà Nội

Đà Nẵng

TP Hồ Chí Minh

Đánh giá thái độ tiếp công dân của cán bộ Một cửa quận      a. Thân thiện, nhiệt tình    b. Bình thường    c. Thân thiện    d. Chưa được    Bình chọn   Kết quả

Video liên quan

Chủ Đề