Hình ảnh người phụ nữ thời phong kiến

Đề bài: Phân tích vẻ đẹp và bi kịch của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến được thể hiện qua văn bản Chuyện người con gái Nam Xương

Phân tích vẻ đẹp và bi kịch của người phụ nữ Việt Nam qua Chuyện người con gái Nam Xương
 

1. Phân tích vẻ đẹp và bi kịch của người phụ nữ Việt Nam qua Chuyện người con gái Nam Xương, mẫu 2:

"Thân em vừa trắng lại vừa trònBảy nổi ba chìm với nước nonRắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son"

Những câu thơ giàu hình ảnh và ý nghĩa trong Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương đã phần nào khái quát được cuộc đời đầy bi kịch, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia, nhưng dù bị vùi dập, chịu oan khổ trong cuộc sống họ vẫn giữ được tấm lòng trinh bạch, thủy chung những nét phẩm chất đáng quý của bản thân. Qua nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, ta sẽ hiểu hơn về vẻ đẹp và bi kịch của những người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến đầy tàn ác, bất công.

Trước hết, ngòi bút chứa chan tinh thần nhân của Nguyễn Dữ đã dựng lên hình ảnh người phụ nữ bình dân Vũ Nương (hay còn gọi là Vũ Thị Thiết) là một người phụ nữ mẫu mực trong gia đình, đảm đang, chu toàn. Nàng tuy sinh ra trong tầng lớp bình dân nhưng "tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp", có cách ứng xử "kính trên nhường dưới" khéo léo, hài hòa. Trong cuộc sống hôn nhân, nàng luôn "giữ gìn khuôn phép", dù chồng có tính đa nghi "đối với vợ thường phòng ngừa quá mức", hay ghen tuông nhưng nàng luôn nhún nhường, giữ đúng chuẩn mực của một người vợ nên gia đình luôn yên ấm, hạnh phúc, "không từng lần nào vợ chồng phải đến thất hoà". Trong khoảnh khắc chia li tiễn chồng đi chiến trận, Vũ Nương chỉ dặn dò, cầu mong chồng trở về trong yên bình chứ không mong vinh hiển, phú quý: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Nàng cũng tỏ bày nỗi cảm thông, lo lắng cho người chồng phải chịu khổ ải nơi chiến trận đầy gian lao, hiểm nguy và nỗi nhớ thương ngày ngóng đêm mong của người vợ nơi hậu phương: "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hang cũng sợ không có cánh hồng bay bổng". Những lời nói của Vũ Nương thể hiện nàng vừa là người có học thức vừa là người vợ chuẩn mực, giàu ân nghĩa ân tình.

Khi xa chồng, phải sống trong nỗi cô đơn, buồn tủi ngóng trông đợi chờ tin tức của người nơi chiến trận nhưng nàng vẫn giữ trọn đạo nghĩa vợ chồng, giữ trọn tấm lòng trinh bạch, chung thủy, hết mực yêu mến, nhớ thương chồng: "mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Cho dù về sau này khi gặp bước oan sai, tấm lòng kiên trinh của nàng vẫn luôn được giữ gìn tuyệt đối: "Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót...".

Không chỉ là một người phụ nữ kiên trinh, chung thủy, mẫu mực, Vũ Nương còn là người phụ nữ luôn giữ trọn đạo hiếu với mẹ chồng và là một người mẹ hết lòng yêu thương con. Khi chồng vắng nhà, Vũ Nương một lòng phụng dưỡng, chăm sóc người mẹ già khi ốm đau "hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn", lo ma chay chu toàn khi người mẹ mất "hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình". Nàng còn một mình xoay sở khi sinh con, nuôi con khôn lớn và dành hết tình yêu thương cho bé Đản. Để đứa con luôn nhớ về cha và cũng là một cách để bù đắp những thiếu thốn tình cảm của cha, Vũ Nương nghĩ ra cách "đêm đêm nàng chỉ bóng mình trên vách bảo với đứa con đó là cha". Điều này vừa minh chứng tình yêu thương con vô bờ bến của nàng cũng như sự thủy chung, quấn quýt không rời, tuy hai mà một của tình nghĩa vợ chồng.

Nàng cũng một lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình, ngay cả khi bị nghi oan, nàng luôn dịu dàng phân trần rõ ràng và khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt của bản thân, thậm chí van nài cầu xin, điều đó chứng tỏ nàng luôn trân trọng, muốn cứu vãn và hàn gắn cuộc hôn nhân này. Khi mọi sự cố gắng, tâm sức bỏ ra không thành, nàng đành chọn cho mình con đường giải thoát, mượn dòng Hoàng Giang để chứng minh tấm lòng trong sạch của bản thân mình: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Trong lời nguyện cầu của Vũ Nương, ta nhận thấy sự đau đớn tột độ khi bị chính người chồng "đầu gối tay ấp" nghi ngờ, buộc tội và thấy được sự tự ý thức về giá trị, nhân phẩm của bản thân. Đối với nàng, phẩm giá dường như là yếu tố quan trọng nhất của một con người.

Một người phụ nữ sắc phẩm vẹn toàn như vậy, đáng lẽ xứng đáng có được cuộc sống êm đềm, hạnh phúc nhưng dưới chế độ phong kiến nam quyền đầy tàn ác, họ lại phải chịu nỗi oan ức, bi kịch tinh thần vô cùng đau xót. Nàng vốn là người phụ nữ thủy chung, hết lòng vì chồng vì con, chăm lo chu toàn cho gia đình, vậy nhưng lại bị đối xử một cách bất công. Vì là phận gái sinh ra trong xã hội phong kiến với hủ tục "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", vậy nên không có quyền lựa chọn hạnh phúc của đời mình. Nàng phải lấy Trương Sinh "con nhà hào phú nhưng không có học" và vốn có "tính đa nghi", ghen tuông, để rồi cũng chính tính cách đó khiến cho người vợ phải chịu nỗi oan ức không kể xiết. Cuộc hôn nhân tan vỡ do hiểu lầm về cái bóng nhưng đó cũng chỉ là cái cớ. Nguyên do sâu xa nhất phải kể đến tính cách thô bạo, ghen tuông mù quáng, hồ đồ, do sự vô học thiếu hiểu biết, thiếu suy nghĩ của Trương Sinh. Chàng ta bị cơn ghen tuông che mờ mắt nên không đủ sự sáng suốt, bình tĩnh để suy xét mọi việc, bỏ hết ngoài tai mọi sự phân trần, giải thích của vợ, không tin tưởng những lời bênh vực của hàng xóm, rẻ rúng, coi thường vợ. Những điều này đã dẫn đến thảm kịch vô cùng đau xót, dẫn đến cái chết oan ức của người vợ hiền, hết mực chung thủy. Trương Sinh cũng chỉ là một nhân vật điển hình, là sản phẩm của chế độ nam quyền, trọng nam khinh nữ dưới xã hội phong kiến đầy bất công. Thông qua đây, tác giả cũng lên tiếng tố cáo chế độ xã hội, chiến tranh phong kiến đã dẫn đến cảnh oan khuất, bi kịch cho người phụ nữ đồng thời bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc đến những bất hạnh, bi kịch mà họ phải gánh chịu.
 

2. Phân tích vẻ đẹp và bi kịch của người phụ nữ Việt Nam qua Chuyện người con gái Nam Xương, mẫu 2:

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

(Truyện Kiều)

Đó là những tiếng lòng ai oán, xót xa của đại thi hào Nguyễn Du nhận xét về thân phận của người phụ nữ sống trong chế độ phong kiến cổ xưa với những luật lệ, hủ tục hà khắc. Nàng Vũ Nương trong câu chuyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một trong những “phận đàn bà” như thế. Nàng là một thiếu nữ có tư dung tốt đẹp và phẩm chất cao quý, nhưng không được hưởng một cuộc sống hạnh phúc mà phải chịu những bi kịch đầy nước mắt. Đó cũng là bi kịch chung của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.

Cuộc đời và số phận bi thảm của người phụ nữ được tác giả Nguyễn Dữ khắc hoạ rõ nét qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” thông qua nhân vật Vũ Nương – người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng kết hôn với Trương Sinh, con nhà hào phú nhưng là kẻ ít học, có tính đa nghi và hay ghen. Biết được tâm tính của chồng như vậy, nàng cũng người biết cách khéo cư xử , “giữ gìn khuôn phép hết mực”, tránh những va chạm trong cuộc sống hằng ngày, để giữ gìn hạnh phúc gia đình, vợ chồng không đến nỗi phải “thất hoà”. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải đi lính. Ngày tiễn chồng ra trận, nàng không nghĩ đến sự “vinh hoa phú quý” khi chồng khải hoàn trở về mà chỉ biết lo lắng tới sự an nguy của chồng, chỉ mong hai chữ “bình yên” như vậy là đủ.

Vũ Nương là người con gái nết na, xinh đẹp “tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đep”. Vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương được thể hiện trong những hoàn cảnh khác nhau. Trong cuộc sống vợ chồng nàng luôn giữ gìn khuôn phép không để gia đình xảy ra thất hoá. Nàng rất thông minh bởi nàng hiểu được chồng mình có tính đa nghi hay ghen. Khi tiễn chồng đi lính, nàng dặn dò chồng với những lời lẽ đầy tình nghĩa, thể hiện ước mơ của cả đời mình “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là ước mơ giản dị không chỉ của Vũ Nương mà là suy nghĩ chung của những người phụ nữ có chồng đi chinh chiến xa nhà. Phú quý giàu sang chẳng thể nào bù đắp đủ cho nỗi trông ngóng, đợi chờ, mong mỏi từng tin tức chồng đang ở chiến trường xa, hay nỗi niềm xót xa cho cảnh “chăn đơn gối chiếc”, buồn tủi khi một thân một mình lẻ loi. cô độc gách vác việc nhà cửa, chăm sóc mẹ già cùng con thơ.

Trong thời gian xa chồng, nàng ở nhà làm tròn trọng trách của “dâu hiền, vợ thảo”, chăm sóc mẹ chồng rất chu đáo, thuốc thang lễ bái thần phật khi mẹ đau ốm, lấy lời ngon ngọt để khuyên lơn, ma chay chu đáo đến khi mẹ chồng mất. Lời trăn trối của mẹ chồng trước lúc lìa đời “xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ” đã khẳng định công lao to lớn của nàng đối với gia đình nhà chồng. Đó chính là phẩm chất “công, dung, ngôn, hạnh” của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Họ luôn sống hết mình hết dạ vì nhà chồng.

Vũ Nương còn là người mẹ rất mực yêu thương con, chăm sóc nuôi dạy con chu đáo. Vì thương con, không muốn con thiếu bóng hình của người cha nên hằng đêm nàng đã chỉ bóng mình trên vách và nói đó là “cha Đản”. Nàng còn là người vợ rất mực chung thuỷ “Tô son điểm phấn đã từng nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Lẽ ra người phụ nữ đẹp người đẹp nết như nàng phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Vậy nhưng hạnh phúc chẳng hề mỉm cười với nàng khi chồng nàng đi lính trở về. Nỗi bi kịch đầy ai oán và xót thương với những dòng nước mắt thấm ướt bến trường giang của nàng được bắt nguồn từ cơn ghen, sử hiểu biết nông cạn từ Trương Sinh.

Có lẽ, vì yêu con nhớ chồng, vì lấy chiếc bóng của mình trên tường chỉ cho con rằng đó là cha Đản mà nàng đã bị chồng nghi oan, hiểu lầm. Nàng đã nói với chồng để bày tỏ tấm lòng trong trắng của mình, cầu xin chồng đừng nghi oan “Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng bày tỏ nỗi thất vọng không hiểu vì sao lại bị đối xử tàn nhẫn. Hạnh phúc của chính nàng nhưng nàng không có quyền được bảo vệ. Nàng đã chọn cái chết để chứng minh tiết hạnh và phẩm chất trong trắng của mình. Hành động đó, cho thấy nàng là một người có lòng tự trọng, ý thức giữ gìn, tiết hạnh, danh dự. Đây cũng chính là giải pháp chung của những người phụ nữ sống trong chế độ “nam quyền độc đoán”. Khi bị hiểu lầm, nghi oan, cho rằng danh tiết của họ bị bôi nhọ, người phụ nữ xưa chỉ biết dùng cái chết của mình để chứng minh sự trong sạch. Bởi lẽ, sống trong xã hội đầy những hủ tục lạc hậu, luật lệ hà khắc với những tư tưởng, quan niệm mang đậm dấu ấn Nho giáo, đề cao vai trò của người đàn ông trong xã hội và gia đình, người phụ nữ không được bảo vệ, không được lựa chọn chốn dung thân và họ bị bạc đãi. Họ rơi vào trạng thái tuyệt vọng vô cùng và chỉ nghĩ đến cái chết, dùng số mệnh của mình để chứng minh tiết hạnh. Hành động của Vũ Nương là một hạnh động quyết liệt cuối cùng để nàng bảo toàn danh dự. Những phẩm chất tốt đẹp của nàng vẫn sáng ngời và duy trì. Khi nàng chết, xuống dưới thuỷ cung nàng vẫn luôn nhớ về chồng con, vẫn lo cho phần mộ của “tiên nhân”. Nàng vẫn luôn khao khát được trở về để phục hồi danh dự của mình.

Kết thúc câu chuyện, chính Trương Sinh đã lập đàn chiêu tuyết cho nàng về giải oan, như một phần an ủi cho số kiếp truân chuyền của người phụ nữ thời xưa. Nhưng vẫn còn đó nỗi đau đau, thương cảm khôn nguôi khi hạnh phúc gia đình chẳng thể nào được hàn gắn, hai chữ “bình yên” vốn dĩ rất giản đơn, bình dị vậy mà lại khó vô cùng.

Vũ Nương là người con gái xinh đẹp nết na, xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng nàng lại phải chết oan uổng. Đó cũng là số phận chung của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ giống như một hồi chuông cảnh tỉnh lên án tố cáo xã hội phong kiến đã chà đạp phẩm hạnh và tước mất quyền bình đẳng, tự do của người phụ nữ. Thông điệp mà nhà văn Nguyễn Dữ muốn gửi đến qua hình tượng nhân vật Vũ Nương là “Hãy yêu thương, tôn trọng, cảm thông với những người phụ nữ”. Đó là điều kiện để đảm bảo hạnh phúc gia đình, là tiếng lòng nhân ái của một nhà văn nhân đạo.

-------------------------HẾT----------------------------

Tóm lại, qua nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, nhà văn Nguyễn Dữ đã bày tỏ niềm thương cảm đối với bi kịch của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa đồng thời ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất của họ, tuy rơi vào bi kịch nhưng luôn giữ trong mình những vẻ đẹp sáng ngời thật đáng trân trọng, các em tham khảo thêm Phân tích bài Chuyện người con gái Nam Xương tại đây.


Qua bài phân tích vẻ đẹp và bi kịch của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến qua văn bản Chuyện người con gái Nam Xương, các em sẽ cảm nhận được vẻ đẹp phẩm chất đáng trân trọng và cả số phận bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.

Phân tích bài Chuyện người con gái Nam Xương Mở bài Chuyện người con gái Nam Xương Hãy kể lại Chuyện người con gái Nam Xương Kể lại một câu chuyện làm em cảm động Cảm nhận về bi kịch của nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương Suy nghĩ về kết thúc của Chuyện người con gái Nam Xương