Hãy lấy ví dụ thể hiện sự vận dụng các nguyên tắc giáo dục.

Những kiến thức đầu đời đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách và phát triển năng lực tư duy của trẻ. Chính vì vậy giáo dục mầm non cũng có những nguyên tắc riêng của nó để đảm bảo có một phương pháp giáo dục trẻ toàn diện. Bài viết duới đây của sẽ chỉ ra 8 nguyên tắc giáo dục mầm non có vai trò quan trọng như thế nào trong quá trình giảng dạy của các cô giáo mầm non là bước đệm đầu tiên cho bé quen với việc đến trường, bước vào giai đoạn giáo dục tiếp theo



NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC MẦM NON

Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích

Bất cứ phương pháp nào thì việc chăm sóc trẻ, các chương trình giáo dục phải đảm bảo được mục tiêu do Bộ GD&ĐT ban hành về chăm sóc cũng như giáo dục trẻ mầm non. Nội dung của nguyên tắc đảm bảo việc xây dựng mẫu người mà giáo dục đã đề ra.Bạn đang xem: Ví dụ về các nguyên tắc giáo dục mầm non

Phải đảm bảo ý nghĩa chính trị- xã hội, giáo dục tư tưởng và đạo đức đối với các loại hình hoạt động xã hội và các mối quan hệ mà học sinh tham gia, luôn xác định những định hướng, tư tưởng và động cơ đúng đắn cho học sinh để tích cực tham gia các hoạt động, các mối quan hệ xã hội nhằm tự giác rèn luyện bản thân theo mục đích giáo dục.Bên cạnh đó phát huy vai trò Đoàn, Đội và các tập thể học sinh trong công tác giáo dục.

Bạn đang xem: Ví dụ về các nguyên tắc giáo dục mầm non

Nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện

Nguyên tắc thứ hai này đòi hỏi sự quan sát và chú ý của giáo viên đến trẻ nhiều nhất vì như thế mới có thể chăm sóc, giáo dục và hướng dẫn cho trẻ phát triển một cách toàn diện, hài hòa về cả thể chất lẫn tinh thần. Từ đó rèn luyện cả về mặt tư duy và đạo đức.

NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC MẦM NON

Phải khắc phục những biểu hiện của lối giáo dục, tách rời công tác giáo dục của nhà trường với các phong trào chính trị- xã hội của nhân dân.

Nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa chăm sóc và giáo dục

Đây chính là yếu tố quan trọng giúp trẻ sau này hình thành thói quen làm việc nhóm và thích nghi với bất kì mối quan hệ nhóm nào để làm việc chung.

Dậy cho con những kĩ năng cơ bản có thể chăm sóc, giáo dục và hướng dẫn cho trẻ phát triển một cách toàn diện, hài hòa về cả thể chất lẫn tinh thần. Phương pháp giáo dục mầm non chính là dậy cho trẻ những kỹ năng cơ bản của một con người như: Bé tự ăn, tự đi vệ sinh, tự mặc quần áo … Bé sẽ tự làm và giáo viên sẽ chỉ là người hướng dẫn.

Nguyên tắc giáo dục trẻ làm việc theo nhóm

Mỗi một đứa trẻ là một tính cách khác nhau, cách thức làm việc cũng như tư duy sáng tạo cũng khác nhau cần được kết hợp chúng thành một nhóm với nhau sao cho chúng tự biết điều tiết cái hạn chế của mình và phát huy cái tốt của bản thân để cùng nhau làm việc một cách hiệu quả.

Xem thêm: Hướng Dẫn Cách Chơi Ad Liên Quân, Hướng Dẫn Cách Chơi Ad Late Mạnh Nhất Liên Quân

Trong quá trình học tập trẻ tích luỹ những kinh nghiệm xã hội của bản thân trong hoạt động và giao lưu với những người xung quanh. Nhà trường cần hình thành những quan hệ xã hội nhất định giúp học sinh khắc phục khó khăn trong việc thực hiện những quan hệ đó và biến những kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm cá nhân của học sinh.

Nguyên tắc nhà trường và gia đình cùng giáo dục

Với trẻ mầm non, cô giáo cũng như một người mẹ thứ 2 nuôi dưỡng chúng vì thế giáo viên nên phối hợp chặt chẽ với gia đình của trẻ, nhận thấy được những hạn chế cũng như những mặt tích cực của trẻ để trao đổi về phương pháp,đưa ra cách tốt nhất để giúp trẻ. Lúc này trách nhiệm của cô giáo mầm non và phụ huynh bé có vai trò tương đương.

Nguyên tắc linh hoạt trong giảng dạy và giáo dục mầm non

Giáo dục mầm non là sự kết hợp giữa truyền đạt tri thức và các hoạt động vui chơi, múa hát để từ đó hình thành nên một môi trường , vui vẻ năng động sáng tạo, thoải mái cho trẻ.

Do vậy trong quá trình giảng dạy có thể thêm, bớt đan xen các hình thức giáo dục vừa đảm bảo có hiệu quả và đảm bảo được mục tiêu giáo dục ban đầu đề ra.

Nguyên tắc cô giáo chủ đạo – trẻ hoạt động tích cực

Nguyên tắc này cô giáo chỉ đóng vai trò hướng dẫn còn trẻ sẽ tự tìm hiểu về các môi trường, hiện tượng xung quanh mình theo lời của cô. Trẻ sẽ tự chủ động bao nhiêu thì sự hiểu biết của trẻ càng được cải thiện. Đây chính là nguyên tắc vững vàng và tích cực nhất trong giáo dục mầm non.

Nguyên tắc khơi dậy niềm đam mê của trẻ

Kết luận

Bậc học đầu đời của mỗi con người chính là trường mầm non. Những kiến thức đầu đời đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách và phát triển năng lực tư duy của trẻ. Bởi vậy mà 8 nguyên tắc giáo dục mầm non trên đây là rất quan trọng trong quá trình giảng dạy của các cô giáo mầm non là bước đệm đầu tiên cho bé quen với việc đến trường, bước vào giai đoạn giáo dục tiếp theo.

Full PDF PackageDownload Full PDF Package

This Paper

A short summary of this paper

37 Full PDFs related to this paper

Download

PDF Pack

Xem xét hai ngữ liệu sau:

Ngữ liệu 1: Thỉnh thoảng, tôi ngứa chân đá một cái, ghẹo anh Gọng Vó lấm láp vừa ngơ ngác dưới nước lên.

[Tô Hoài]

Ngữ liệu 2: Thỉnh thoảng, tôi ngứa chân đá một cái, ghẹo anh Gọng Vó lấm láp vừa ngơ ngác dưới nước lên.Tôi càng tưởng tôi là tay ghê gớm, sắp đứngđầu thiên hạ rồi. Chao ôi, có biết đâu rằng: hung hăng, hống hách láo chỉ tổ đem thân mà trả nợ cho những cử chỉ ngu dại của mình thôi.

[Tô Hoài]

- Theo anh [chị ], khi dạy đơn vị kiến thức từ láy [cấu tạo từ], giáo viên nên chọn ngữ liệu nào? Vì sao?

Chọn ngữ liệu 2 để đảm bảo tính tư tưởng.

Kiến thức cần nhớ:

Khái niệm “Tính tư tưởng” cần phải được hiểu theo nghĩa rộng, khái quát, không nên chỉ bó hẹp trong phạm vi chính trị xã hội. Trước hết “Tính tư tưởng” cần được hiểu từ góc độ phương pháp. Với ý nghĩa này, dạy tiếng phải góp phần giáo dục thế giới quan khoa học cho học sinh, nghĩa là giáo dục cho các em biết vận dụng một cách linh hoạt, cụ thể các nguyên lí cơ bản của duy vật biện chứng, duy vật lịch sử vào việc xem xét những sự kiện ngôn ngữ được tổ chức dạy học. Cụ thể, dạy tiếng phải làm cho các em không nhìn những sự kiện ngôn ngữ trong trạng thái tĩnh, tách rời môi trường hoạt động của nó là giao tiếp và tư duy, không tách ngôn ngữ khỏi tư duy và cũng không tách tư duy khỏi ngôn ngữ. Mỗi khi cần xem xét đánh giá một sự kiện ngôn ngữ nào [ từ, câu, đoạn, nghĩa...] các em phải biết đặt vào môi trường hành chức của nó [từ trong câu, trong đoạn...], đặt trong mối quan hệ với các sự kiện và nhân tố có liên quan, xác định giá trị của các sự kiện ngôn ngữ phải trong những điều kiện lịch sử cụ thể, không coi giá trị là yếu tố tự thân của sự kiện ngôn ngữ mà hiểu được chính là do những mối quan hệ mang lại.... Để có thể làm được như vậy, các đơn vị kiến thức, các phương pháp, thủ pháp dạy học, các ngữ liệu liệu và bài tập tiếng Việt đưa vào chương trình phải đảm bảo tính chính xác, tính khoa học, có khả năng góp phần rèn luyện tư duy cho các em ở mức có thể tối đa. Cùng với việc giáo dục thế giới quan khoa học, để đảm bảo tính tư tưởng, dạy tiếng còn phải góp phần giáo dục tình cảm, đạo đức cho học sinh. Đây là một vấn đề phức tạp và tế nhị đòi hỏi không thể đồng nhất giáo dục với giáo huấn. Cần phải chuyển hoá các nội dung giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức vào mọi khâu của hoạt động dạy tiếng. Trước hết là phải làm cho các em thích học tiếng. Để cho học sinh thích học tiếng thì nội dung phải thiết thực, hình thức phải linh hoạt, phương pháp phải sinh động sao cho các em không chỉ thấy mình có khả năng cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tiếng Việt mà còn thấy mình có khả năng sáng tạo ra cái hay cái đẹp bằng tiếng Việt. Những vấn đề thuộc nội dung tình cảm, đạo đức hợp chuẩn xã hội phải được lồng ghép một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn trong các văn bản ngữ liệu.

Quan sát và lựa chọn:

Trong 2 qui trình dạy học cho cùng một nội dung bài học là "ôn tập về từ [chia theo cấu tạo]" sau đây, anh [chị] chọn quy trình nào? Tại sao?

Quy trình 1

- Bước 1: Giáo viên nêu câu hỏi tái hiện: Chia theo cấu tạo thì từ có bao nhiêu loại? Đó là những loại nào?- Bước 2: Học sinh trả lời, giáo viên củng cố lại kiến thức.- Bước 3: Giáo viên hỏi: căn cứ nào để phân chia ra các loại từ theo cấu tạo như vây?- Bước 4: Học sinh trả lời, giáo viên củng cố-Bước 5: Giáo viên cho học sinh làm một số bài tập vận dụng.

Quy trình 2

- Bước 1: Học sinh lấy ví dụ các câu trong đó có chứa các kiểu cấu tạo từ đã học.- Bước 2: Giáo viên cho một Graph khuyết, yêu cầu học sinh hoàn chỉnh [cả về nội dung trong G và cả mũi tên cùng chiều mũi tên]?Từ láy 2 tiếng quan hệ về mặt âmTừ đơnTừ phức >=2tiếngTừ ghép Bước 3: Giáo viên củng cố qua sơ đồ.- Bước 4: Làm bài luyện tập.

Gợi ý: Anh [chị] thấy quy trình nào giúp học sinh hiểu bài và nắm bài tốt hơn?

Nên sử dụng quy trình 2 trong dạy học tiếng Việt vì nó thể hiện được sự trực quan [học sinh theo dõi rất dễ], lại tái hiện được kiến thức gọn, hiệu quả, đảm bảo được tính khoa học và phát triển; phù hợp với nguyên tắc dạy học bộ môn. Vậy dạy học tiếng Việt phải đảm bảo nguyên tắc trực quan, nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và đảm bảo tính hệ thống và phát triển.

Viết bảng vẫn là một hình thức thể hiện tính trực quan phổ biến nhất trong dạy học hiện nay!

Trực quan trong dạy - học tiếng chủ yếu là “ Trực quan ngôn ngữ ” cho nên tài liệu trực quan trong giờ dạy tiếng Việt chính là tiếng Việt. Để đảm bảo nguyên tắc này, ngoài việc đưa mẫu lời nói chuẩn giáo viên còn phải chú ý tới ngôn ngữ của chính mình và ngôn ngữ của học sinh[ cả âm thanh và chữ viết]. Trước đây, trong chương trình cải cách, mẫu lời nói chủ yếu là các ngữ liệu được dùng làm thí dụ. Vì vậy, khi đưa các thí dụ, sách giáo khoa và giáo viên cần phải xác định rõ tính chuẩn của ngữ liệu [ chuẩn về tính điển hình, chuẩn về nội dung...]. Trong chương trình tích hợp hiện hành, ngữ liệu dạy tiếng không tách rời các văn bản văn học, vì thế, bên cạnh các ngữ liệu chọn làm thí dụ, các văn bản văn học được tuyển đưa vào chương trình cũng được coi là “ Mẫu lời nói ” và cũng phải đảm bảo tính chuẩn [ chuẩn về phong cách, chuẩn về hàm chứa những sự kiện ngôn ngữ điển hình cho hiện tượng tiếng Việt được đưa ra dạy học...]. Trong giờ dạy – học tiếng Việt, ngôn ngữ của giáo viên và học sinh cũng là những phương diện trực quan rất quan trọng. Giáo viên không được quyền nói viết ngọng, nói viết sai từ, sai ngữ pháp, thậm chí không được quyền viết tắt, viết hoa, viết in, viết thường tuỳ tiện, không đúng với những quy định chính tả hiện hành. Khi học sinh tham gia đàm thoại xây dựng bài, giáo viên phải quan tâm đúng mức tới ngôn ngữ diễn đạt của các em, phải uốn nắn kịp thời các lỗi phát âm, chính tả, dùng từ, đặt câu... Phải cho học sinh ý thức được rằng trong giờ học tiếng Việt, việc sử dụng tiếng Việt của các em cũng là một nội dung học tập, rèn luyện kĩ năng.

Anh [chị] tự kiểm tra tri thức cũ bằng cách chọn phương án trả lời đúng cho câu hỏi sau đây:

Việc dạy học môn tiếng Việt trong nhà trường được coi là việc dạy học:

Kiến thức này thuộc chương 1 của giáo trình, phần Đặc trưng của môn tiếng Việt trong nhà trường

Liên hệ thực tiễn:

Hiện nay, trong tổ chức, xây dựng chương trình và triển khai việc dạy học môn tiếng Việt còn một số khâu chưa thực sự đảm bảo tính khoa học. Anh [chị] thử đưa ra một vài ví dụ. Từ đó, nêu cách hiểu của mình về nguyên tắc đảm bảo tính khoa học trong dạy học tiếng Việt.

Đây là nguyên tắc chung không phải chỉ riêng cho dạy – học tiếng song trong dạy – học tiếng, nguyên tắc này đòi hỏi các khái niệm, các quy tắc được đưa vào chương trình phải đảm bảo tính chính xác về nội dung khoa học, tính thống nhất về quan điểm và nguyên tắc. Tuyệt đối tránh tình trạng đưa những nội dung, những khái niệm tiếp thu vội vã của nước ngoài, áp đặt vào tiếng Việt, chưa qua kiểm nghiệm thực tế hoặc cùng một hiện tượng ngôn ngữ nhưng ở chỗ này thì trình bầy theo quan điểm này, gọi bằng thuật ngữ này những ở chỗ khác lại trình bầy theo quan điểm khác, gọi bằng thuật ngữ khác [chẳng hạn: cùng một đối tượng, lúc thì sử dụng thuật ngữ "kết từ", lúc thì "liên từ", lúc thì "hư từ", lúc lại "quan hệ từ",... lúc thì câu phức bao hàm cả câu ghép lúc lại câu phức đẳng lập với câu ghép,... lúc thì câu lúc lại phát ngôn, lúc phát ngôn lúc lại diễn ngôn, lại văn bản... ]. Tính khoa học còn đòi hỏi các đơn vị kiến thức phải được phân bổ và trình bầy trong các bài học một cách hợp lí, nhất quán. Tính hợp lí của các đơn vị kiến thức không phải chỉ thể hiện ở việc xác định vị trí trước sau, trọng tâm hay không trọng tâm mà còn thể hiện cả ở phương diện định dung, định tính phù hợp với bản chất của hiện tượng ngôn ngữ và phù hợp quỹ thời gian. Tính nhất quán trong trình bầy đòi hỏi không được tuỳ tiện vi phạm nguyên tắc. Chẳng hạn đã khẳng định phải đặt các hiện tượng ngôn ngữ vào môi trường hành chức của nó để xem xét [từ trong câu, câu trong đoạn...] thì khi dạy – học về từ ngữ không được lấy thí dụ, đưa ngữ liệu chỉ là một từ tách rời khỏi ngữ cảnh, khi chữa câu không được tách rời câu chữa ra khỏi vị trí chức năng của nó trong văn cảnh...

Đây là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng của giáo dục học cần được vận dụng linh hoạt vào dạy - học tiếng Việt ở phổ thông dù với tư cách một môn học độc lập hay chỉ với tư cách một bộ phận cấu thành của môn chung tích hợp “Ngữ văn”.

Như đã trình bầy ở mục nguyên tắc xây dựng chương trình, bất cứ chương trình nào cũng phải có tính hệ thống và tính phát triển. Yêu cầu này được thể hiện trước hết ở chỗ các đơn vị kiến thức được lựa chọn đưa vào chương trình luôn phải được tổ chức, sắp xếp theo một trình tự hợp lí [phân cấp, phân lớp, phân bài, thứ tự trước sau trong bài...], vừa phản ánh được mối quan hệ bản chất giữa các đơn vị kiến thức lại vừa thể hiện được tính thống nhất về quan điểm và mục đích của việc xây dựng chương trình. Với mỗi cấp học, chương trình luôn là sự kế thừa, tiếp nối có mở rộng nâng cao các tri thức đã được đưa vào dạy – học ở bậc học dưới và luôn là sự chuẩn bị những kiến thức cơ sở cho chương trình ở bậc học cao hơn. Đối với chương trình cải cách biên soạn theo quan điểm “ Tiếng Việt là một môn học độc lập ”, nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính phát triển được thể hiện ở cấu trúc “ đồng tâm ”, các tri thức đã dạy - học ở bậc tiểu học sẽ được tổ chức dạy – học lại ở bậc THCS nhưng có mở rộng, nâng cao và các tri thức đã được dạy – học ở THCS sẽ lại được tổ chức dạy - học lại ở PTTH và được mở rộng nâng cao thêm một bước nữa. Với chương trình biên soạn theo quan điểm Tiếng Việt là một bộ phận cấu thành của môn chung tích hợp “Ngữ văn”, nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính phát triển được thể hiện có phần khác với sự thể hiện trong chương trình cải cách. Các tri thức đã dạy - học ở THCS sẽ không được tổ chức dạy – học lại ở PTTH mà được chuyển thành các bài tập thực hành trong hoạt động đọc - hiểu văn bản và làm văn. Đồng thời, các đơn vị kiến thức cũng sẽ được phân chia thành ba cụm, được biên soạn sắp xếp vào chương trình trên cơ sở của hai trục tích hợp đọc - hiểu và làm văn như đã trình bầy ở chương I.

Kế thừa và phát triển còn đòi hỏi một mặt phải biết kế thừa có chọn lọc các nội dung của chương trình tiếng Việt đã có trước đó để đưa vào chương trình mới, mạnh dạn cắt bỏ những nội dung không cần thiết, những nội dung đã lạc hậu lỗi thời, mặt khác cũng phải biết tiếp thu, vận dụng có chọn lọc và sáng tạo cách xác lập nội dung chương trình của các nước có nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới để hoàn thiện hiện đại hoá cho nội dung chương trình tiếng Việt.

Hoạt động tự nhận thức

Đọc đoạn văn bản dưới đây và điền một từ mà anh [chị] cho là đúng nhất vào chỗ bỏ trống:

Khái niệm "trình độ" cần được hiểu đúng. Trong dạy học tiếng Việt, "trình độ" không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là "trình độ tiếng Việt" mà cần được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa khái quát là "trình độ ..."

nhận thức

Nguyên tắc chung của Giáo dục học này cần được vận dụng và cụ thể hoá một cách linh hoạt, sáng tạo vào dạy – học tiếng Việt. Trong dạy học nói chung, trong dạy học tiếng Việt nói riêng, "trình độ" được hiểu là “trình độ nhận thức” của học sinh. “Trình độ nhận thức” một mặt phụ thuộc vào đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh nhưng mặt khác cũng lại là kết quả tổng hoà của nhiều mối quan hệ xã hội khác. Không xét theo cá nhân mà xét theo lứa tuổi thì học sinh ở bậc THCS có “Trình độ nhận thức” cao hơn học sinh ở bậc Tiểu học, học sinh ở bậc PTTH lại có “Trình độ nhận thức” cao hơn học sinh bậc THCS, học sinh ở các khu vực đô thị và đồng bằng có “Trình độ nhận thức” cao hơn học sinh ở các khu vực vùng sâu, vùng xa, miền núi và hải đảo, học sinh thuộc cộng đồng đa số cư trú ở các khu vực trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế có “Trình độ nhận thức” cao hơn học sinh thuộc các cộng đồng thiểu số thường sống ở các khu vực xa các trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế. Chính vì vậy, nguyên tắc "phù hợp với trình độ ” đòi hỏi nội dung chương trình và hệ thống phương pháp dạy-học các đơn vị kiến thức phải được soạn thảo, xác lập, vận dụng cụ thể hoá trên cơ sở sát hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh ở mỗi lớp, mỗi cấp, thậm chí cả mỗi khu vực và cộng đồng sao cho không dưới sức mà cũng không quá sức, phải vừa hợp sức lại vừa có khả năng tạo sức.

Kiến thức cần huy động

- Anh [chị] hiểu "tích hợp" là gì?

- "Tính tích cực" thể hiện trong dạy học như thế nào?

- Vì sao việc dạy học cần phải đảm bảo tính tích hợp, tích cực?

- Trong dạy học, có thể có những cách tích hợp nào?

Đọc tham khảo phần kiến thức sau:

Vừa là công cụ của giao tiếp lại vừa là công cụ của tư duy, đó là bản chất xã hội của ngôn ngữ. Bởi vậy, người ta không thể dạy-học tiếng tách rời khỏi giao tiếp, tách rời khỏi tư duy. Nội dung của giao tiếp, của tư duy luôn là kết quả tổng hoà của hoạt động nhận thức thuộc rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và tự nhiên. Cho nên, ở một mức độ nhất định, tự thân việc dạy-học tiếng nói chung, dạy-học tiếng Việt nói riêng cũng đã mang tính tích hợp rồi. Chẳng hạn khi lấy một thí dụ từ một văn bản văn chương hay một văn bản nhật dụng làm ngữ liệu để dạy-học một khái niệm, một quy tắc nào đấy về tiếng thì thực ra ít nhiều cũng đã vận dụng tích hợp giữa văn và tiếng. Có điều, sự vận dụng này còn mang tính chất vô thức, không được đặt ra như một lí thuyết, một nguyên tắc và cũng vì vậy, một mặt, chương trình tiếng Việt cải cách cho dù có được biên soạn theo tinh thần là một môn học độc lập thì ít nhiều vẫn chứa đựng những nội dung tích hợp và quá trình thi công chương trình này dù muốn hay không muốn cũng ít nhiều đã buộc phải vận dụng tích hợp. Mặt khác, tích hợp chỉ thực sự trở thành một nguyên tắc của việc dạy – học tiếng nói chung, tiếng Việt nói riêng khi chương trình được biên soạn theo tinh thần tích hợp, hợp nhất văn học, làm văn và tiếng Việt vào một môn chung là “ Ngữ văn ”.

· Với cách hiểu này, như ở chương I đã trình bầy, về nội dung nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải phối hợp được các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau, có thể phối hợp, hỗ trợ tác động lẫn nhau để cùng tạo nên một kết quả tổng hợp, nhanh chóng và vững chắc. Các tri thức tiếng Việt tuy vẫn có tính độc lập tương đối song phải được tích hợp cùng với các nội dung văn học và làm văn thành một thể thống nhất: dạy học đọc – nghe – nói – viết .

· Về phương pháp dạy – học, nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải lấy khâu đọc – hiểu và thực hành làm văn làm hai trục tích hợp chủ yếu, phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa cung cấp tri thức lí thuyết với rèn luyện kĩ năng và bồi dưỡng năng lực tiếng Việt cho học sinh, không dạy - học quá nhiều các tri thức hàn lâm nhưng cũng không dạy – học theo kiểu kinh nghiệm chủ nghĩa. Phải trên cơ sở ý thức đầy đủ về trình độ tiếng Việt và khả năng vận dụng tiếng Việt vào hoạt động đọc – hiểu của học sinh để tổ chức cho học sinh tìm hiểu vai trò biểu đạt, hiệu quả thẩm mĩ của các yếu tố tiếng Việt [âm thanh, nhịp điệu, từ ngữ, câu, đoạn, các biện pháp tu từ, các yếu tố về phong cách, về kết cấu, về ngữ cảnh...] trong mối quan hệ với văn bản văn chương hoặc văn bản nhật dụng đang được tìm hiểu, từ đó tổng hợp, khái quát hoá thành các tri thức về khái niệm và quy tắc lí thuyết, tạo tiền đề và phương hướng cho học sinh có thể tiếp tục tự học.

· Về hệ thống câu hỏi trong dạy - học tiếng Việt, nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải gắn với hoạt động đọc – hiểu và làm văn của học sinh. Không nên chỉ hướng vào việc tìm hiểu và định nghĩa các khái niệm, các quy tắc. Cần phải tập trung vào những câu hỏi có tính chất định hướng các thao tác hoạt động, tìm hiểu vai trò biểu đạt và hiệu quả biểu đạt của các yếu tố tiếng Việt trong mối quan hệ vơí văn bản đọc – hiểu sao cho học sinh thấy được tầm quan trọng của việc sử dụng, cảm nhận được cái hay, cái đẹp, sự tinh tế, độc đáo, sáng tạo của việc sử dụng, có ý thức, có nhu cầu vận dụng và biết vận dụng sáng tạo các tri thức tiếng Việt vào hoạt động làm văn của mình.

· Hệ thống bài tập trong dạy – học tiếng Việt theo nguyên tắc tích hợp cũng phải gắn bó hữu cơ với hoạt động đọc – hiểu và làm văn của học sinh. Các bài tập có tính chất củng cố các tri thức lí thuyết về cấu trúc không nên quá nhiều. Phải coi trọng các bài tập rèn luyện kĩ năng lĩnh hội và kĩ năng sử dụng các yếu tố tiếng Việt: giải thích, phân tích hiệu quả sử dụng, hoàn cảnh sử dụng, điều kiện sử dụng [ các yếu tố ngữ âm, từ, thành ngữ, điển tích điển cố, các biện pháp tu từ từ vựng và cú pháp...], điền từ, điền câu, sửa chữa lỗi từ, lỗi câu, lỗi đoạn, lập ý, lập luận....

· Theo giáo dục học hiện đại, nhân cách là bộ mặt tâm lí đặc trưng của mỗi cá nhân, là kết quả của hàng loạt những tác động tự nhiên và xã hội, chủ quan và khách quan, là tổ hợp những phẩm chất phù hợp với những giá trị đã được xã hội thừa nhận như là những chuẩn mực của xã hội. Con người chỉ là một nhân cách khi nó thực sự là chủ thể của hoạt động bởi hoạt động là phương thức tồn tại và cũng là con đường hình thành, phát triển nhân cách. Con người hoạt động như thế nào thì nhân cách cũng được hình thành và phát triển như thế ấy. Nội dung, phương thức hoạt động, mục đích và ý thức của mỗi cá nhân trong hoạt động sẽ tạo nên những nét tính cách riêng của từng người. Mỗi con người đều là sản phẩm của chính mình. Dạy-học là một hình thức hoạt động, một con đường quan trọng nhất của giáo dục. Dạy-học “ tích cực ” là phải đảm bảo cho người học thực sự là chủ thể của hoạt động, là sản phẩm của chính mình.

Về bản chất, dạy-học là một hoạt động xã hội có chủ đích, có kế hoạch và vì thế nó có tính quá trình, tính hệ thống, bao gồm nhiều nhân tố có quan hệ hữu cơ, tương tác biện chứng.

Kiến thức cần huy động

- Anh [chị] hiểu "tích hợp" là gì?

- "Tính tích cực" thể hiện trong dạy học như thế nào?

- Vì sao việc dạy học cần phải đảm bảo tính tích hợp, tích cực?

- Trong dạy học, có thể có những cách tích hợp nào?

Đọc tham khảo phần kiến thức sau:

Vừa là công cụ của giao tiếp lại vừa là công cụ của tư duy, đó là bản chất xã hội của ngôn ngữ. Bởi vậy, người ta không thể dạy-học tiếng tách rời khỏi giao tiếp, tách rời khỏi tư duy. Nội dung của giao tiếp, của tư duy luôn là kết quả tổng hoà của hoạt động nhận thức thuộc rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và tự nhiên. Cho nên, ở một mức độ nhất định, tự thân việc dạy-học tiếng nói chung, dạy-học tiếng Việt nói riêng cũng đã mang tính tích hợp rồi. Chẳng hạn khi lấy một thí dụ từ một văn bản văn chương hay một văn bản nhật dụng làm ngữ liệu để dạy-học một khái niệm, một quy tắc nào đấy về tiếng thì thực ra ít nhiều cũng đã vận dụng tích hợp giữa văn và tiếng. Có điều, sự vận dụng này còn mang tính chất vô thức, không được đặt ra như một lí thuyết, một nguyên tắc và cũng vì vậy, một mặt, chương trình tiếng Việt cải cách cho dù có được biên soạn theo tinh thần là một môn học độc lập thì ít nhiều vẫn chứa đựng những nội dung tích hợp và quá trình thi công chương trình này dù muốn hay không muốn cũng ít nhiều đã buộc phải vận dụng tích hợp. Mặt khác, tích hợp chỉ thực sự trở thành một nguyên tắc của việc dạy – học tiếng nói chung, tiếng Việt nói riêng khi chương trình được biên soạn theo tinh thần tích hợp, hợp nhất văn học, làm văn và tiếng Việt vào một môn chung là “ Ngữ văn ”.

· Với cách hiểu này, như ở chương I đã trình bầy, về nội dung nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải phối hợp được các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau, có thể phối hợp, hỗ trợ tác động lẫn nhau để cùng tạo nên một kết quả tổng hợp, nhanh chóng và vững chắc. Các tri thức tiếng Việt tuy vẫn có tính độc lập tương đối song phải được tích hợp cùng với các nội dung văn học và làm văn thành một thể thống nhất: dạy học đọc – nghe – nói – viết .

· Về phương pháp dạy – học, nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải lấy khâu đọc – hiểu và thực hành làm văn làm hai trục tích hợp chủ yếu, phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa cung cấp tri thức lí thuyết với rèn luyện kĩ năng và bồi dưỡng năng lực tiếng Việt cho học sinh, không dạy - học quá nhiều các tri thức hàn lâm nhưng cũng không dạy – học theo kiểu kinh nghiệm chủ nghĩa. Phải trên cơ sở ý thức đầy đủ về trình độ tiếng Việt và khả năng vận dụng tiếng Việt vào hoạt động đọc – hiểu của học sinh để tổ chức cho học sinh tìm hiểu vai trò biểu đạt, hiệu quả thẩm mĩ của các yếu tố tiếng Việt [âm thanh, nhịp điệu, từ ngữ, câu, đoạn, các biện pháp tu từ, các yếu tố về phong cách, về kết cấu, về ngữ cảnh...] trong mối quan hệ với văn bản văn chương hoặc văn bản nhật dụng đang được tìm hiểu, từ đó tổng hợp, khái quát hoá thành các tri thức về khái niệm và quy tắc lí thuyết, tạo tiền đề và phương hướng cho học sinh có thể tiếp tục tự học.

· Về hệ thống câu hỏi trong dạy - học tiếng Việt, nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải gắn với hoạt động đọc – hiểu và làm văn của học sinh. Không nên chỉ hướng vào việc tìm hiểu và định nghĩa các khái niệm, các quy tắc. Cần phải tập trung vào những câu hỏi có tính chất định hướng các thao tác hoạt động, tìm hiểu vai trò biểu đạt và hiệu quả biểu đạt của các yếu tố tiếng Việt trong mối quan hệ vơí văn bản đọc – hiểu sao cho học sinh thấy được tầm quan trọng của việc sử dụng, cảm nhận được cái hay, cái đẹp, sự tinh tế, độc đáo, sáng tạo của việc sử dụng, có ý thức, có nhu cầu vận dụng và biết vận dụng sáng tạo các tri thức tiếng Việt vào hoạt động làm văn của mình.

· Hệ thống bài tập trong dạy – học tiếng Việt theo nguyên tắc tích hợp cũng phải gắn bó hữu cơ với hoạt động đọc – hiểu và làm văn của học sinh. Các bài tập có tính chất củng cố các tri thức lí thuyết về cấu trúc không nên quá nhiều. Phải coi trọng các bài tập rèn luyện kĩ năng lĩnh hội và kĩ năng sử dụng các yếu tố tiếng Việt: giải thích, phân tích hiệu quả sử dụng, hoàn cảnh sử dụng, điều kiện sử dụng [ các yếu tố ngữ âm, từ, thành ngữ, điển tích điển cố, các biện pháp tu từ từ vựng và cú pháp...], điền từ, điền câu, sửa chữa lỗi từ, lỗi câu, lỗi đoạn, lập ý, lập luận....

· Theo giáo dục học hiện đại, nhân cách là bộ mặt tâm lí đặc trưng của mỗi cá nhân, là kết quả của hàng loạt những tác động tự nhiên và xã hội, chủ quan và khách quan, là tổ hợp những phẩm chất phù hợp với những giá trị đã được xã hội thừa nhận như là những chuẩn mực của xã hội. Con người chỉ là một nhân cách khi nó thực sự là chủ thể của hoạt động bởi hoạt động là phương thức tồn tại và cũng là con đường hình thành, phát triển nhân cách. Con người hoạt động như thế nào thì nhân cách cũng được hình thành và phát triển như thế ấy. Nội dung, phương thức hoạt động, mục đích và ý thức của mỗi cá nhân trong hoạt động sẽ tạo nên những nét tính cách riêng của từng người. Mỗi con người đều là sản phẩm của chính mình. Dạy-học là một hình thức hoạt động, một con đường quan trọng nhất của giáo dục. Dạy-học “ tích cực ” là phải đảm bảo cho người học thực sự là chủ thể của hoạt động, là sản phẩm của chính mình.

Về bản chất, dạy-học là một hoạt động xã hội có chủ đích, có kế hoạch và vì thế nó có tính quá trình, tính hệ thống, bao gồm nhiều nhân tố có quan hệ hữu cơ, tương tác biện chứng.

Video liên quan

Chủ Đề