Đường lối kháng chiến chống Pháp 1946 1954 được Đảng Cộng sản Đông Dương xác định là gì

1. Hoàn cảnh lịch sử

Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, cho quân đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng  bào ta ở Hà Nội, Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên lạc với phía Pháp để giải  quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán thương lượng.

Ngày 19/2/1946, trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội,  kiểm soát an ninh trật tự Thủ đô, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại làng Vạn  Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối  phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán, song không có kết quả. Hội  nghị cho rằng hành động của Pháp chứng tỏ chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa.  Khả năng hòa hoãn không còn. Hòa hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước. Hội nghị đã  quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công  trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh  kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, tất cả các chiến trường trong  cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng  chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài Tiếng nói Việt Nam.

>> Xem thêm:

Thuận lợi

Nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là chiến đấu để bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên có chính nghĩa,  có “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Ta cũng đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng  có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương không  dễ gì có thể khắc phục được ngay.

Khó khăn

– Tương quan lực lượng quân sự của ta yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được  nước nào công nhận giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được  hai nước Campuchia, Lào và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân  trong các thành thị lớn ở miền Bắc.

– Xác định đúng thuận lợi và khó khăn là cơ sở để Đảng đề ra đường lối cho cuộc kháng  chiến.

2. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến

Quá trình hình thành

– Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước trong quá trình chỉ đạo  Nam bộ kháng chiến, qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn của địch cũng như từ thực tiễn chuẩn bị lực lượng về mọi mặt của ta.

– Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong chỉ thị kháng chiến kiến quốc,  Đảng ta nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc là thực dân Pháp, phải tập  trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến Nam bộ,  Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với  ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.

– Ngày 19/10/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị quân sự toàn quốc  lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định: “Không sớm  thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định phải đánh Pháp”, Hội nghị đề ra những  chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng  bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” ngày 05/11/1946, Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước  vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.

– Đường lối kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong ba văn  kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc  bùng nổ. Đó là Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng  ngày 22/12/1946, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh ngày 

19/12/1946 và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh xuất bản  đầu năm 1947.

Nội dung đường lối

– Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “đánh  phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.

– Tính chất kháng chiến: trường kì kháng chiến, toàn diện kháng chiến.

– Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc chiến tranh cách  mạng có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do…nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải  phóng dân tộc và phát triển dân chủ mới”.

– Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện  kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

+ Kháng chiến toàn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc,  bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh thực dân Pháp”,  thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.

+ Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại  giao. Trong đó:

++ Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền,  các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa  bình.

++ Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu  diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến,  đánh chính quy, là “triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến  lâu dài… vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.

++ Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển nền  nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.

++ Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ theo  ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.

++ Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân  tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt  Nam độc lập,…

+ Kháng chiến lâu dài (trường kì): là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của  Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa  tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

+ Dựa vào sức mình là chính: “phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía.  Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không  được ỷ lại.

+ Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi. Ý nghĩa

– Trong nước: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn  vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến  tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng  hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa,  hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân  ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

– Quốc tế: thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới, cùng với  nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước  Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí  Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó cũng là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam,  đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”.

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Tuy nhiên với âm mưu thâm độc – thực dân pháp với dã tâm xâm lược nước ta, khó khăn trong nước chưa được giải quyết thì khó khăn về giặc ngoại xâm ập đến.

Với tinh thần đoàn kết, truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất chống ngoại xâm, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng nhau đứng lên để giữ nền độc lập của nước nhà. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Toàn quốc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược giai đoạn 1945-1954”.

Danh mục tài liệu tham khảo

  • Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.
  • Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004.
  • ThS. Trương Ngọc Thơi, Bồi dưỡng học sinh giỏi lịch sử lớp 12, Nxb ĐHQG Hà Nội.
  • “Chỉ thị của BCH trung ương Đảng về kháng chiến – kiến quốc, ngày 25/11/1945”, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 (tr. 21 – 34), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
  • “Chỉ thị hoà để tiến” của Ban thường vụ BCH trung ương Đảng ngày 9/3/1946, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 (tr. 48 – 56), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
  • “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946”, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 (tr.160 – 161), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.

Hoàn cảnh lịch sử và nguyên nhân phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân pháp

Hoàn cảnh lịch sử trên thế giới

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới từng bước có những chuyển biến to lớn.

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thế giới bước vào thời kì tiền chiến tranh lạnh. Đó là sự đối đầu về quan hệ giữa hai cường quốc Xô-Mỹ. Liên Xô đứng đầu cho phe Xã hội chủ nghĩa, còn Mỹ đứng đầu phe Tư bản chủ nghĩa. Với mục tiêu và âm mưu thống trị thế giới, Mỹ luôn tìm cách ngăn chặn, tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Ở Đông Âu, nhân dân các nước Anbani, Ba lan, Bungari, Hungari, Nam Tư, Rumani, Tiệp Khắc đã lần lượt hoàn thành công cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đồng thời bước vào thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa.

Hoàn cảnh lịch sử trong nước

Chính quyền cách mạng còn non trẻ mới được thành lập chưa kịp củng cố, chưa được nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, cách mạng vẫn ở vào thế bị cô lập.

Thiên tai, nạn lụt lớn làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ, tiếp theo là nạn hạn hán kéo dài làm cho hơn một nửa diện tích ruộng đất không thể cày cấy được.

Ngân sách kho bạc hầu như trống rỗng, kho bạc nhà nước chỉ có khoảng hơn 1,2 triệu đồng Đông Dương, trong đó có một nửa rách nát không lưu hành được.

Tàn dư văn hóa lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân số nước ta bị mù chữ, các tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút ngày đêm hoành hành.

Hơn một năm đầu sau cách mạng tháng Tám, cách mạng nước ta đứng trước tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”.

Nguyên nhân phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp

Trái với thiện chí hòa bình của Việt Nam, thực dân Pháp vẫn ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, nuôi hi vọng giành thắng lợi bằng quân sự. với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, chúng đã trắng trợn xé bỏ những điều đã cam kết với ta trong hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946.

Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp đã tập trung quân tiến công vào các phòng tuyến của quân ta đánh chiếm các phần tự do còn lại.

Ở Bắc Bộ, hạ tuần tháng 11-1946 Pháp cho quân khiêu khích tiến quân ta ở Hải Phòng, Lạng Sơn. Tháng 12-1946, chúng chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, đưa thêm viện binh đến Hải Phòng.

Ở Hà Nội, từ 15 đếb 16-12-1946, Pháp đã liên tiếp gây xung đột ở nhiều nơi. Đốt cháy nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ Tài chính, Bộ Giao thông Công chính, gây vụ thảm sát đồng bào ta ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, cầu Long Biên..

Trắng trợn hơn, ngày 18 và 19-12-1946, Pháp còn gửi tối hậu thư buộc chính phủ ta phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, giao quyền kiểm soát thủ đô cho Pháp, chúng đe dọa nếu yêu cầu đó không được chấp nhận thì chậm nhất quân Pháp sẽ “hành động” vào sáng 20-12-1946.

Những hành động khiêu khích, xâm lược của Pháp đã làm cho nền độc lập, chủ quyền của nước ta bị đe dọa nghiêm trọng. Chính những hành động gây chiến của thực dân Pháp là nguyên nhân dẫn tới cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta.

Đường lối kháng chiến chống Pháp 1946 1954 được Đảng Cộng sản Đông Dương xác định là gì
Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giai đoạn 1945 – 1954

Nội dung đường lối kháng chiến thực dân Pháp của Đảng.

Các văn kiện hình thành đường lối 

Ngày 12-12-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”. Ngày 19-12-1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Từ tháng 3 đến tháng 9-1947, đồng chí Trường Chinh viết một số bài báo giải thích cụ thể về đường lối kháng chiến. Tháng 9-1947, được in thành sách với tiêu đề “ Kháng chiến nhất định thắng lợi”.

Từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương được tiến hành tại xã Vinh Quang (Chiêm Hóa, Tuyên Quang). Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, đã thông qua hai báo cáo quan trọng:

“Báo cáo chính trị” do chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã tổng kết kinh nghiệm của Đảng qua các chặng đường lịch sử đấu tranh cách mạng, khẳng định đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng. Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam”:

Xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại là: tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống nhất hoàn toàn dân tộc.

Xóa bỏ những tàn dư phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đại hội đã thảo luận và quyết định nhiều chính sách cơ bản trên mọi lĩnh vực như: củng cố chính quyền, xây dựng quân đội, củng cố mặt trận, phát triển kinh tế, tài chính, văn hóa…nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt.

Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập ở Việt Nam, Lào, Campuchia mỗi nước một Đảng Mác-Lenin riêng. Ở Việt Nam, Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên là Đảng Lao động Việt Nam.

Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới của Đảng và quyết định xuất báo Nhân dân làm cơ quan ngôn luận của Đảng.

Như vậy Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng là mốc đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình lãnh đạo và sự trưởng thành, lãnh đạo của Đảng ta. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, củng cố thêm niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến, kiến quốc.

Toàn quốc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược giai đoạn 1945-1954.

Nội dung của đường lối kháng chiến thực dân Pháp của Đảng

Đảng xác định tính chất của cuộc kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam mang tính chất dân tộc dân chủ nhân dân.

Kế thừa sự nghiệp của cách mạng tháng Tám: Cách mạng tháng Tám là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ hang đầu là chống đế quốc giành độc lập dân tộc, nhiệm vụ chống phong kiến có mức độ nhất định nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Lực lượng tham gia là cuộc vùng dậy của toàn dân tộc, được đoàn kết trong hình thức mặt trận Việt Minh. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2-9-1945 là nhà nước toàn dân.

Nhiệm vụ của cuộc kháng chiến: Chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc, đánh đổ hoàn toàn tàn dư của phong kiến để dành quyền dân chủ cho người dân.

Thực dân Pháp với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, chúng đã huy động lực lượng hùng mạnh và sự chuẩn bị kĩ lưỡng để tiến hành âm mưu đó. Đất nước ta với tư thế vừa giành được chính quyền nên còn non trẻ, giành được chính quyền đã khó, nay giữ chính quyền càng khó hơn. Vì vậy, nhiệm vụ hang đầu là toàn dân đứng dậy đồng long chống thực dân Pháp bảo vệ nền độc lập cho dân tộc. Sau đó đánh đổ hoàn toàn tàn dư của phong kiến để dành quyền dân chủ cho người dân.

Đảng xác định kẻ thù của cuộc kháng chiến là thực dân Pháp.

Sau cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, quân đội các nước Đồng minh, với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, đã kéo vào nước ta. Ngoài Pháp, Nhật chưa rút quân thì quân Trung Hoa Dân Quốc, quân Anh đã kéo vào nước ta. Họ có danh nghĩa hợp pháp, là quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật Bản, nhưng tính chất chung là chống phá cách mạng Việt Nam.

Tuy trên đất nước lúc này một lúc có nhiều kẻ thù như vậy nhưng Đảng vẫn xác định kẻ thù nguy hiểm nhất là thực dân Pháp vì: Thực dân Pháp có âm mưu quay lại xâm lược Việt Nam. Ngay sau khi chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, Chính phủ Pháp đã thành lập một đội quân viễn chinh do tướng Locolec chỉ huy nhằm chiếm lại Đông Dương.

Được sự ủng hộ của quân Anh, ngày 23-9-1945, Pháp tiến công Sài Gòn, mở đầu cho cuộc xâm lược trở lại nước ta. Lợi dụng tình hình trên, các lực lượng phản cách mạng như Đại Việt, Torokit, bọn phản động trong các giáo phái ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp. Như vậy với ý chí thực dân, cả trong tư duy và hành động, thực dân Pháp đã bộc lộ rõ dã tâm xâm lược Việt Nam.

Phân tích về âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Trung ương Đảng nêu rõ “ kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.

Lực lượng của cuộc kháng chiến: Đảng xác định lực lượng của cách mạng là các giai cấp công nhâ, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ. Lực lượng này đoàn kết dưới mặt trận Liên Việt và dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.

Phương hướng của cuộc kháng chiến: Sau khi làm cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân sẽ đưa đất nước quá độ đi lên Xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã dự báo được trước hướng đi của đất nước sau này. Đó là đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, là chế độ mà người dân được lên làm chủ, quản lí đất nước, để không còn bất công như xã hội Phong kiến-xã hội mà có những con người bị dìm dưới đáy xã hội.

Phương pháp của cuộc kháng chiến: Sử dụng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang từng bước tấn công sinh lực địch và lấy quyền làm chủ.

Đoàn kết quốc tế: Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam với các giai cấp tầng lớp công nhân và nông dân trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của phong trào dân chủ nhân dân trên thế giới và Việt Nam phải giúp đỡ Lào, Campuchia phát triển chiến tranh du kích. Việc giúp đỡ Lào, Campuchia phát triển chiến tranh du kích sẽ làm cho quân Pháp phân tán lực lượng trên ba mặt trận. Từ đó, giúp cho ta dễ dàng hơn trong việc đối phó với chúng.

Phương châm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: Toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.

Tính chất toàn dân: Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là cuộc cách mạng nhằm đánh đuổi bọn thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất đất nước.

Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và thực dân Pháp. Pháp là đội quân nhà nghề với nhiều kinh nghiệm trên chiến trường, với vũ khí tối tân hiện đại. Còn ta, sau cách mạng thang Tám ta đã tổn hại khá lớn lực lượng cách mạng. Ngoài ra còn xuất phát từ truyền thống “ toàn dân đánh giặc” của dân tộc ta từ thời dựng nước và giữ nước; từ quan điểm “ cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác-lenin, từ tư tưởng “chiến tranh nhân dân” của chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ trương “ kháng chiến toàn diện” của Đảng ta.

Tính toàn diện: Vì địch không chỉ đánh ta trên mặt trận quân sự mà còn đánh ta trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao nên ta phải thực hiện cuộc kháng chiến toàn diện trên tất cả các lĩnh vực ấy. Ngoài ra kháng chiến toàn diện cũng là điều kiện để thực hiện kháng chiến toàn dân.

Tính chất trường kỳ kháng chiến: Kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc ta là: lấy ít đánh nhiều, lấy ít chống mạnh, lấy chính nghĩa thắng hung tàn, truyền thống đánh giặc lâu dài của dân tộc ta. Trường kỳ kháng chiến-nhằm đánh bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp và khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội của một số Đảng viên.

Kháng chiến tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế: Vì ta hiểu rõ mối quan hệ giữa các yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó yếu tố chủ quan giữ vai trò quyết định nhất. Bởi vì có nỗ lực chủ quan mới phát huy hết sức mạnh của mình, mặc dù ta vẫn coi trọng sự hỗ trợ từ bên ngoài. Phải đem sức ta mà giải phóng cho ta, tránh ỷ lại vào bên ngoài, đồng thời phải ra sức tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế với tinh thần “cứu bạn là tự cứu mình”, nên cuộc kháng chiến của ta phải tự lực là chính.

Chiến thắng của nhân dân ta trên các chiến dịch với thực dân Pháp

Chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947

Thực hiện chỉ thị của Đảng, trên khắp các mặt trận, nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu tiêu diệt nhiều sinh lực địch, từng bước phá vỡ vòng vây của địch ở nhiều nơi. Cuộc chiến đấu hơn hai tháng giữa ta và địch đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quân Pháp ra khỏi Việt Bắc ngày 19-12-1947. Cơ quan đầu não của ta được bảo toàn.

Bộ đội chủ lực của ta đã trưởng thành. Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947 đã giáng một đòn quyết định chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng phải đánh lâu dài với ta. Đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta vào giai đoạn mới. Là mốc khởi đầu cho sự thay đổi tương quan, so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho cuộc kháng chiến của ta.

Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950

Chiến dịch Biên giới thu-đông 1950 diễn ra từ ngày 16-9-1950 và thắng lợi kết thúc ngày 22-10-1950. Với chiến thắng này, con đường liên lạc của ta với các nước XHCN được khai thông; quân đội chủ lực của ta đã trưởng thành về mọi mặt, cơ quan đầu não của ta được bảo vệ. Sau chiến dịch Biên giới thu-đông 1950, quân ta giành thế chủ động chiến lược trên chiến trường chính, ngược lại thực dân Pháp vào thế bị động, đối phó với các đợt tiến công của ta.

Chiến dịch Điện Biên Phủ

Chiến thắng Điện Biên Phủ làm phá sản hoàn toàn kế hoạch Nava, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo cơ sở tực lực đi đến Hiệp định Giơ-ne-vơ, buộc Pháp phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của ba nước Đông Dương là độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Kết quả, nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử

Nguyên nhân thắng lợi

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống pháp là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, với đương lối kháng chiến đúng đắn sáng tạo. Đường lối kháng chiến toàn dân toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh, kết hợp hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ phù hợp với điều kiện của đất nước. Đường lối đó đã phát huy được chỗ mạnh căn bản và khắc phục những nhược điểm, chuyển thế và lực của nhân dân ta từ yếu sang mạnh.

Toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một long, dung cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất, góp phần vào chiến thắng của dân tộc.

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp thắng lợi là nhờ có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt.

Cuộc kháng chiến chống pháp của nhân dân ta cùng với cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân Lào, Campuchia, được tiến hành trong lien minh chiến đấu của nhân dân ba nước chống kẻ thù chung, có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước dân chủ khác, của nhân dân Pháp và nhân loại tiến bộ trên thế giới.

Kết quả, ý nghĩa lịch sử

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời chấm dứt ách thống trị của thực dân pháp gần một thế kỉ trên đất nước ta; miền Bắc được giải phóng, chuyển sang giai đoạn XHCN, trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, là hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tạo điều kiện giải phóng mien Nam, thống nhất đât nước.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ 2, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là nguồn cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh.

Tuy vậy, miền Nam nước ta chưa được giải phóng, nhân dân ta còn phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống Mĩ nhằm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước.

Bài học kinh nghiệm

Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện, đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hang đầu là chống đế quốc, giải phóng dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa thực hiện chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Thứ tư, quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài, đồng thời tích cực chủ động đề ra và thực hiện phương thức chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, đưa kháng chiến đến thắng lợi.

Thứ năm, tang cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu quả lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.

Như vậy với đường lối sáng tạo, đúng đắn của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954 đã hoàn toàn thắng lợi. Đẩy được bọn thực dân đã thống trị nước ta bấy lâu nay, tuy đang phải ngồi lên bàn đàm phán và còn tiếp tục đấu tranh với kẻ thù mới nhưng thắng lợi với thực dân Pháp đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Đặc biệt, cho ta thấy sức mạnh của sự đoàn kết, một lòng gìn giữ độc lập của dân tộc.

Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: tìm hiểu về hợp tác hóa nông nghiệp ở miền bắc nước ta. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Trân trọng./.