Cảm nhận về bài thơ Đất nước 9 câu đầu

Cảm nhận về bài thơ Đất nước 9 câu đầu

        Có một đề tài, vẫn luôn trở đi trở lại như một lời khấn khứa, luôn thường trực trong tâm hồn, luôn khắc khoải khôn nguôi chẳng bao giờ vơi cạn, đó là đề tài về quê hương đất nước. Cũng lấy mạch nguồn từ đất nước, nhưng mỗi nhà thơ lại gây ấn tượng bằng cách diễn đạt hình ảnh khác nhau, với Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã vận dụng sáng tạo, tài tình các chất liệu dân gian để mang đến cho người đọc những rung cảm mới mẻ về nguồn cội của Đất nước. 9 câu thơ mở đầu là sự thể hiện sâu sắc nhất nét đặc biệt này của thơ Nguyễn Khoa Điềm.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”

        Mở đầu đoạn thơ là câu nói quen thuộc, tưởng như thuở ấu thơ của chúng ta đều đằm trong mình giọng kể của bà của mẹ với những câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa, từ đó, bắc cây cầu liên tưởng cho tâm hồn người đọc. Hóa ra, đất nước hiện ra trong cổ tích, trong những kí ức tuổi thơ gần gũi, thân quen đến thế chứ chẳng hề kì vĩ, lớn lao như một đấng bậc xa xôi thần bí nào. Đất nước không ở ngoài xa một cách xa xôi, diệu vợi mà nhuần thấm giá trị trong ta, từ những ngày âu thơ khi chập chững cất tiếng nói đầu tiên, hình ảnh và linh hồn Đất Nước đã thường trực mãi như vậy. Và Đất Nước còn:

“Bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”

       Có lẽ với mỗi người con đất Việt nào, thì hình ảnh quả cau miếng trầu đã trở nên quá đỗi quen thuộc, nó là ký ức thuộc về văn hóa, là những nét đẹp truyền thống thấm dần trong từng thớ vỏ tâm hồn người Việt. Nếu trong ca dao dân ca, hình ảnh miếng trầu thường được xuất hiện bên những câu hát giao duyên, câu hát huê tình: trầu này trầu tính trầu tình, ăn vào cho đỏ môi mình môi ta. Thì trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, bằng bàn tay nghệ thuật sáng tạo và tâm hồn thơ hiện đại, nhà thơ đã mang đến cho chất liệu dân gian ấy một hơi thở, một sức sống mới. Kết hợp với hai câu thơ mở đầu ta nhận ra, đất nước không chỉ hiện ra trong những câu chuyện cổ tích bay bổng của dân gian mà còn thấm nhuần những nét đẹp văn hóa được hun đúc trong hàng ngàn năm lịch sử.

        Tiếp tục mạch lập luận đi tìm cội nguồn của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng kín đáo gửi gắm vào trong đó truyền thuyết Thánh Gióng- khi dân mình biết trồng tre đánh giặc. Như vậy, trong hành trình tìm về với cội nguồn đất nước sâu xa, nhà thơ không chỉ nhìn thấy hình ảnh đất nước lớn lao vĩ đại, mà còn thấy cả trong đó những truyền thuyết dân gian hào hùng vẫn sáng mãi vẻ đẹp con người dân tộc với tinh thần chống giặc quật cường, vẻ đẹp ấy bất chấp dòng chảy thời gian vô thủy vô chung.

        Điểm vào đó, nhà thơ cũng bắt vào mạch thơ những câu ca dao tục ngữ đã trở thành điểm tựa của đạo lý dân tộc: gừng cay muối mặn, đó là nét đẹp của con người Việt Nam son sắt, thủy chung, trước sau như một. Đó cũng là nền tảng để dân tộc ta đời đời kiếp kiếp cùng nhau đoàn kết, gắn bó chia ngọt sẻ bùi.

       Đất Nước hiện diện trong cổ tích, trong tục ngữ, ca dao, truyền thuyết, trong nét đẹp văn hóa cổ xưa, và trong cả nỗi vất vả cần lao lam lũ khó  nhọc mà chịu thương chịu khó của người nông dân lao động. Đất Nước được làm nên, được vun đắp bởi những giọt mồ hôi nóng bỏng của người dân lương thiện cui cút làm ăn.

       Như vậy, có thể thấy Nguyễn Khoa Điềm viết về Đất nước, từ chính những chất liệu dân gian- linh hồn của con người dân tộc, nơi gửi gắm điệu hồn và nét đẹp của bao thế hệ dân tộc, do đó, mạch thơ rất chính luận mà cũng đằm thắm trữ tình, dạt dào xúc cảm. Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm hiện lên vừa gần gũi, mộc mạc, giản dị chứ không quá thiêng liêng kì vĩ một cách siêu hình, do đó dễ khơi gợi được sự chân cảm từ phía bạn đọc.

      Bằng ngòi bút sáng tạo, linh hoạt của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã mang hơi thở, sức sồng mới vào các chất liệu dân gian, từ đó làm vốn liếng để lý giải một cách giản dị mà thấm đượm nguồn cội thiêng liêng của Đất Nước.

Các bài viết liên quan:

  • Soạn bài: Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm (hay nhất)
  • Soạn bài: Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm (ngắn nhất)

Đăng bởi: Wikichiase.com

Chuyên mục Giáo dục

Bài làm

Nguyễn Khao Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng động, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân, mang màu sắc chính luận. Đoạn trích “Đất Nước” là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông. Đoạn trích thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước, và cái mới mẻ ấy thôi thúc chúng ta đi tìm cội nguồn của Đất Nước. Với 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khao Điềm thể hiện quan niệm của mình về cội nguồn của Đất Nước thật đặc sắc.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…

Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu, chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971,in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sự mệnh thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mĩ.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Câu thơ mở đầu là lời khẳng định tự nhiên, giản dị: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Đất Nước có từ “khi ta lớn lên”, từ khi ta chưa ra đời, xuyên suốt bốn ngàn năm văn hiến. Như vậy, Đất Nước tồn tại như một điều hiển nhiên, nó có chiều sâu cội nguồn cũng như sự hình thành và phát triển bao đời nay. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước thật gần gũi, hiện diện trong những câu chuyện cổ tích thường mở đầu bằng “ngày xửa ngày xưa”. Câu thơ khiến ta nhớ đến hình ảnh của người bà thường hay kể chuyện cho con cháu nghe, là hình ảnh cô Tấm bị mẹ con Cám bắt nạt, là hình là nàng tiên bước ra từ quả thị…. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” thật quen thuộc và gần gũi với con người Việt Nam. Bởi, mỗi câu chuyện là mỗi bài học đạo lí dạy ta biết “ở hiền gặp lành”, biết thiện thắng ác, biết sống thủy chung,… Tác giả không dùng từ ngữ, hình ảnh hoa mĩ tráng lệ mang tính biểu tượng để thể hiện Đất Nước mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người. Tác giả giúp ta tìm hiểu Đất Nước có từ nền văn hóa dân gian cha ông ta để lại.

Tác giả cảm nhận Đất Nước gắn với phong tục tập quán, hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

“Miếng trầu bà ăn” là miếng trầu tình nghĩa trong “sự tích trầu cau” khiến ta rung rung nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa an hem gắn bí. Từ đó, hình ảnh “trầu cau” trở thanh “miếng trầu là đầu câu chuyện”, trở thành thứ không thể thiếu được trong lễ cưới, tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thủy chung.

“Tóc mẹ thì bới sau đầu”

Đó là hình ảnh đặc thù của người phụ nữ Việt Nam, thùy mị, duyên sáng và thật đáng yêu. Nét đẹp ấy làm ta gợi nhớ đến câu ca dao:

“Tóc ngang lưng vừa chừng em búi

Để chi dài bối rối lòng anh”

Không những chỉ là những cảm nhận ở trên về Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận Đất Nước trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình nặng nghĩa như “gừng cay muối mặn”

“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

Dù gian nan, dù cay đắng nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng, thắm thiết. Hình ảnh thơ gợi ta nhớ câu ca dao:

“Tay bưng đĩa muối, chén gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Hay

“Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chin tháng vẫn hãy còn cay

Đôi ta tình nặng nghĩa đầy

Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”

Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.

Đất Nước ta từ ngàn đời đã có truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc:

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hình ảnh “cây tre” là biểu tượng của người Việt Nma, gắn với đời sống thường ngày và có lúc trở thành vũ khí xông pha ra chiến trường đánh giặc, Thánh Gióng từng nhổ tre đánh giặc Ann, nhà văn Thép Mới cũng từng nhận ra:

“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chin”

Tre thật thà chất phác, đôn hậu, yêu thủy chung yêu chuộng hòa bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong chiến tranh. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa cho dân tộc:

“Một cây chông cũng tiến công giặc Mĩ”

Bởi

“Nòi tre đâu chịu mọc cong

Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”

Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó:

“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sáng”

Thành ngữ “một nắng hai sương” và các động từ liên tiếp xay, giã, giần, sàng gợi lên sự vất vả và triền miên của người nông dân trên đồng rộng. Đất Nước gắn với nên văn minh lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bảo, gắn liền với quá trình lao động vất vả để có được hạt gạo, để sinh tồn. Ý thơ thật sâu sắc. Câu thơ gợi nhắc đến ca dao:

“Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cà

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

Từ Đất Nước viết hoa diễn tả tình cảm thiêng liêng đối với Đất Nước. Giongj thơ trữ tình,câu thơ dài ngắn đan xen thể hiện cảm xúc tư nhiên, phóng khoáng. Ngôn ngữ giản dị, sử dụng sáng tạo các chất liệu từ văn học dân gian tạo chiều sâu cho ý thơ.

Đất Nước đối với Nguyễn Khoa Điềm là những gì bình thường, gần gũi nhất. Nó có trong cổ tích, ca dao, gắn liền với nguồn mạch quê hương để làm nên một chân dung trọn vẹn về Đất Nước: Thân thương mà hào hùng, vất vả mà thủy chung.