Các yếu tố cơ bản của báo cáo kiểm toán

Đề tài: Các loại báo cáo kiểm toán. Áp dụng phương pháp phân tích đánh giá
tổng quát để phân tích bảng cân đối kế toán của một đơn vị cụ thể.
I.
Cơ sở lý luận
1.
Báo cáo kiểm toán
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm kiểm toán
Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và thẩm quyền thu thập và đánh giá các
bằng chứng về cac thông tin có thể định lượng được cảu một đơn vị cụ thể, nhằm mục
đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn
mực đã được thiết lập.
1.1.2. Khái niệm báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng của một cuộc kiểm toán, là văn bản do kiểm
toán viên phát hành để trình bày ý kiến của mình về thông tin tái chính được kiểm
toán.
1.2. Các yếu tố cơ bản của báo cáo kiểm toán
Tùy theo mỗi quốc gia, mỗi hạng kiểm toán có những quy định khác nhau về BCTC,
song theo thông lệ kiểm toán quốc tế và đoạn chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS 700)
quy định:
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính gồm các yếu tố cơ bản và được trình bày theo
thứ tự sau:
a)

Tên và địa chỉ công ty kiểm toán

b)

Số hiệu báo cáo kiểm toán

c)

Tiêu đề báo cáo kiểm toán

d)

Người nhận báo cáo kiểm toán

e)

Mở đầu của báo cáo kiểm toán

Nêu đối tượng của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính
Nêu trách nhiệm của giám đốc (hoặc người đúng đầu) đơn vị được kiểm toán và
trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán
f)

Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán

Nêu chuẩn mực kiểm toán được áp dụng để thực hiện cuộc kiểm toán
Nêu những công việc và thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên được thực
hiện
g)

Ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về báo cáo tài chính được kiểm
toán

h)

Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán

i)

Chữ ký và đóng dấu

Báo cáo kiểm toán phải được trình bày nhất quán về hình thức và kết cấu để người đọc
hiểu thống nhất và dễ nhận biết khi có tình huống bất thường xảy ra.
Tên và địa chỉ công ty kiểm toán :
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ tên, biểu tượng , địa chỉ giao dịch, số điện thoại, số fax
và số hiệu liên lạc khác của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán phát hành báo
cáo kiểm toán.
Trường hợp có từ hai công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một cuộc kiểm toán thì
phải ghi đầy đủ các thông tin nêu trên của các công ty cùng kỳ báo cáo kiểm toán.
Số hiệu báo cáo kiểm toán:
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ số hiệu phát hành báo cáo kiểm toán của công ty
hoặc chi nhánh công ty kiểm toán theo từng năm (số đăng ký chính thức trong hệ
thống văn bản của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán)
Tiêu đề báo cáo kiểm toán :
Báo cáo kiểm toán phải có tiêu đề rõ ràng và thích hợp để phân biệt với báo cáo
do người khác lập. Báo cáo kiểm toán được phép sử dụng tiêu đề  Báo cáo kiểm
toán, hoặc  Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính, hoặc  Báo cáo kiểm toán về
báo cáo tìa chính năm  của công ty
Người nhận báo cáo kiểm toán :
Báo cáo kiểm toám phải ghi rõ người được nhận báo cáo kiểm toán phù hợp với
Hợp đồng kiểm toán. Người nhận có thể là Hội đồng quản trị, Giám đốc, hoặc các cổ
đông đơn vị được kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải được đính kèm với báo cáo tài chính được kiểm toán.

Mở đầu của báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ các báo cáo tài chính là đối tượng cảu cuộc kiểm
toán cũng như ghi rõ ngày lập và phạm vi niên độ tài chính mà báo cáo tài chính đó
phản ánh.
Báo cáo kiểm toán phải khẳng định rõ ràng việc lập báo cáo tài chính là thuộc
trách nhiệm của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán. Trách nhiệm
của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính dựa trên
kết quả kiểm toán của mình.
Báo cáo tài chính phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
Việc lập báo cáo tài chính đòi hỏi Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị phải tuân
thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận; Phải lựa chọn các
nguyên tắc và phương pháp kế toán cũng như phải đưa ra các ước tính kế toán và các
xét đoán thích hợp. Ngược lại trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là
kiểm tra các thông tin trên báo cáo tài chính và đưa ra ý kiến về báo cáo này.
Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán
bằng cách khẳng định rằng công việc kiểm toán được thực hiện theo mẫu chuẩn mực
kế toán Việt Nam, hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận.
Điều đó chỉ khả năng của kiểm toán viên thực hiện các thỉ tục kiểm toán xét
thấy cần thiết tùy theo từng tình huống cụ thể. Thủ tục này là cần thiết để đảm bảo cho
người đọc báo cáo kiểm toán hiểu rằng cuộc kiểm toán được thực hiện theo các chuẩn
mực và thông lệ được thừa nhận. Trong trường hợp riêng biệt, kiểm toán viên được
thực hiện các thủ tục kiểm toán khác thì cần phải ghi rõ trong báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ các công việc đã thực hiện bao gồm :
a) Các phương pháp kiểm toán (chọn mẫu, thử nghiệm cơ bản,) những
bằng chứng kiểm toán đủ để xác minh được thông tin trong báo cáo tài chính
b)

Đánh giá việc tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp

nhận ). Các nguên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng để lập báo cáo tài chính
c)

Đánh giá các ước tính kế toán và xét đoán quan trọng đã được Giám đốc (hoặc

người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán thực hiện khi lập báo cáo tài chính

d)

Đánh giá việc trình bày toàn bộ tình hình tài chính trên các báo cáo tài chính

Báo cáo kiểm toán phải được nêu rõ là cuộc kiểm toán đã cung cấp những cơ sở hợp lý
để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên
Ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán
về các báo cáo tái chính trên phương diện phản ánh (hoặc trình bày) trung thực và hợp
lý trên các khía cạnh trọng yếu, trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế
toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), và việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên
quan.
Khi đánh giá sự tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành để lập báo cáo
tài chính, cần đánh giá trên phương diện tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán Việt
Nam hiện hành (hoặc chuẩn mực kế toán quốc tế, hoặc chuẩn mực và chế độ kế toán
thông dụng khác được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận) bằng mẫu câu, như:
Báo cáo tài chính được lập phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt
Nam hiện hành (hoặc chuẩn mực kế toán Quốc tế, hoặc chuẩn mực và chế độ kế toán
thông dụng khác được Bộ Tài Chính chấp nhận tại văn bản số.ngày..) và phù hợp
với quy định pháp lý có liên quan.
Ngoài ý kiến đã được nêu ra về tính trung thực và hợp lý mà báo cáo tài chính
phản ánh và sự tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán, báo cáo kiểm toán còn phải đưa
ra ý kiến về tính tuân thủ của báo cáo tài chính đối với các quy định pháp lý có liên
quan khác.
Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải được ghi rõ ngày, tháng, năm kết thúc toàn bộ công
việc kiểm toán. Điều này cho phép người sử dụng báo cáo tài chính biết rằng kiểm
toán viên được xem xét đến các sự kiện (nếu có ) ảnh hưởng đến báo cáo tài chính,
hoặc báo cáo kiểm toán cho đến tận ngày ký báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ địa điểm ( Tỉnh, Thành phố ) cảu công ty hoặc
chi nhánh công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán.
Ngày ký báo cáo kiểm toán không được ghi trước ngày Giám đốc ( hoặc người
đứng đầu ) đơn vị ký báo cáo tài chính. Trường hợp báo cáo tài chính được điều chỉnh

và lập lại trong quá trình kiểm toán thì ngày ký báo cáo kiểm toán được phép ghi cùng
ngày với ngày ký BCTC
Chữ ký và đóng dấu
BCKT phải ký rõ tên của kiểm toán viên đã đăng ký hành nghề kiểm toán ở
Việt Nam- Người chịu trách nhiệm kiểm toán, và ký rõ tên của Giám đốc ( hoặc người
được ủy quyền ) phải đóng dấu của công ty ( hoặc chi nhánh ) chịu trách nhiệm phát
hành báo cáo kiểm toán. Giữa các trang của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính
được kiểm toán phải đóng dấu giáp lai
Phù hợp với thông lệ chung của quốc tế, Giám đốc ( hoặc người được ủy
quyền ) được phép ký bằng tên của Công ty kiểm toán thay cho chữ ký tên của mình,
nhưng vẫn phải ghi rõ họ và tên, số hiệu giấy phép hành nghề kiểm toán ở Việt Nam
của chính mình, và đóng dấu công ty kiểm toán
Trường hợp có từ hai công ty kiểm toán cùng thực hiện một cuộc kiểm toán thì
báo cáo kiểm toán phải được ký bởi Giám đốc ( hoặc người được ủy quyền ) của đủ
các công ty kiểm toán theo đúng thủ tục. Trường hợp này kiểm toán viên chịu trách
nhiệm kiểm toán không phải ký tên trên báo cáo kiểm toán
Người được ủy quyền  kỳ báo cáo kiểm toán có thể là Phó Giám đốc công
ty , Giám đốc hoặc Phó Giám đôc chi nhánh và là người có giấy phép hành nghề kiểm
toán ở Việt Nam và phải được Giám đốc công ty ủy quyền bằng văn bản
Ngôn ngữ trình bày trên báo cáo kiểm toán là tiếng Việt Nam hoặc tiếng nước
ngoài khác thỏa thuận trên hợp đồng kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính hợp nhất
BCKT phải được lập riêng cho từng cuộc kiểm toán báo cáo tài chính của từng
đơn vị khác hàng ( Công ty, đơn vị xó tư cách pháp nhân độc lập ) theo thỏa thuận ghi
trên hợp đồng kiểm toán
Trường hợp kiểm toán báo cáo tài chính hợp nhất của Tổng công ty, theo thỏa
thuận trên hợp đồng kiểm toán, nếu kiểm toán báo cáo tài chính cho từng công ty độc
lập của Tổng công ty thì phải lập báo cáo kiểm toán cho từng công ty độc lập. Nếu
kiểm toán báo cáo tài chính cho từng đơn vị phụ thuộc trong Tổng công ty, thì được
phép lập báo cáo kiểm toán hoặc Biên bản kiểm toán. Biên bản kiêm toán này phải
bao gồm các nội dung cơ bản của báo cáo kiểm toán.

Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính hợp nhất của Tổng công ty phải được
lập dựa trên kết quả kiểm toán được thực hện đối với các đơn vị thành viên, và kết quả
kiểm tra báo cáo tài chính hợp nhất.
1.3 Các loại báo cáo kiểm toán
Trong báo cáo trình bày kết luận về các khía cạnh:
-

các báo cáo tài chính lập ra có phù hợp với các thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực
kế toán không.

-

Các thông tin TC có phù hợp với các qui định hiện hành và yêu cầu của luật
pháp không.

-

Toàn cảnh các thông tin TC của doanh nghiệp có phù hợp với hiểu biết của
Kiểm toán viên về hoạt động của doan nghiệp không.

-

Các thông tin TC có thể hiện thỏa đáng mọi vấn đề trọng yếu và có đảm báo
trung thực hợp lý không.

Có 4 loại báo cáo kiểm toán:
1.3.1 Ý kiến chấp nhận toàn phần
Báo cáo kiểm toán đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần được trình bày trong trường hợp
kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng BCTC phản ánh trung thực và hợp lý
trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp
với chuẩn mực và chế độ kế toán VN hiện hành(hoặc được chấp nhận).Ý kiến chấp
nhận toàn phần cũng có hàm ý rằng tất cả các thay đổi về nguyên tắc kế toán và các tác
động của chúng đã được xem xét đánh giá một cách đầy đủ và đã được đơn vị nêu rõ
trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
Ví dụ : theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính được phản ánh trung thực và hợp
lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính tại công ty ABC tại ngày 31/12/X,
cũng như kết quả kinh doanh và các luồng tiền lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính
kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Viêt Nam hiện
hành và các quim định pháp lý có liên quan.
Ý kiến chấp nhận toàn phần được áp dụng cho cả trường hợp báo cáo tài chính được
kiểm toán có những sai sót nhưng đã được kiểm toán viên phát hiện và đơn vị đã điều
chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên; Báo cáo tài chính sau khi điều chỉnh đã được
kiểm toán viên chấp nhận.Trường hợp này thường dùng mẫu câu: theo kiến của

chúng tôi, báo cáo tài chính sau khi đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên, đã
phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu.
Ý kiến chấp nhận toàn phần còn được áp dụng cho cả trường hợp báo cáo kiểm toán có
một đoạn nhận xét để làm sáng tỏ một số yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến báo
cáo tài chính, nhưng không có ảnh hưởng đến báo cáo kiểm toán. Đoạn nhận xét này
thường đặt sau đoạn đưa ra ý kiến nhằm giúp người đọc đánh giá ảnh hưởng của các
yếu tố ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.
Ví dụ : theo ý kiến của chúng tôi báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý
trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X,
cũng như kết quả kinh doanh và các luồng tiền lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính
kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện
hành và các qui định pháp lý có liên quan. Ở đây chúng tôi không phủ nhận ý kiến
chấp nhận toàn phần như trên, mà chỉ muốn lưu ý người đọc báo cáo tài chính đến
điểm X trong phần thuyết minh báo cáo tài chính: công ty ABC đã đưa vào sử dụng
công trình xây dựng có giá trị XX VNĐ, 3 tháng trước ngày kết thúc niên độ tài chính,
nhưng chưa ghi tăng tài sản cố định, chưa tính khấu hao và cũng chưa lập dự phòng.
Điều này cần được thuyết minh rõ ràng trong báo cáo tài chính
Ý kiến chấp nhận toàn phần không có nghĩa là báo cáo tài chính được kiểm toán là
hoàn toàn đúng, mà có thể sai sót nhưng sai sót đó là không trọng yếu.
1.3.2. Ý kiến chấp nhận từng phần
Báo cáo kiểm toán đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần được trình bày trong trường hợp
kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính chỉ phản ánh trung
thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị, nếu không
bị ảnh hưởng của yếu tố tùy thuộc (hoặc ngoại trừ) mà kiểm toán viên đã nêu ra trong
báo cáo kiểm toán. Điều này cũng có nghĩa là nếu các yếu tố do kiểm toán viên nêu ra
trong báo cáo kiểm toán có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính thì báo cáo tài
chính đó không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu.
Yếu tố tùy thuộc là yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn, như các vấn đề liên quan
đến tính liên tục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hoặc một khoản doanh thu
có thể không được công nhận làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty.

Yếu tố tùy thuộc do kiểm toán viên nêu ra thường liên quan đến các sự kiện có thể xảy
ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và kiểm toán viên. Việc
đưa ra yếu tố tùy thuộc cho phép kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của
mình nhưng cũng làm cho người đọc báo cáo tài chính phải lưu ý và tiếp tục theo dõi
khi sự kiện có thể xảy ra.
Ý kiến chấp nhận từng phần có 2 dạng:
Ý kiến Ngoại trừ
Khi kiểm toán viên còn những bất đồng về các nhà quản lý doanh nghiệp về từng bộ
phận của báo cáo tài chính. Trong báo cáo kiểm toán phải nêu rõ những bất đồng. giá
trị của báo cáo kiểm toán không bị hạn chế vì người đọc sẽ tự đánh giá bất đồng có
ảnh hưởng như thế nào đến báo cáo tài chính của đơn vị
VD: chi nhánh của công ty tạikhông kiểm kê tài sản ngày 31/12 với lý do mới đi vào
hoạt động. Vì vậy chúng tôi không xác nhận được số tài sản hiện có tại chi nhánh.
Theo ý kiến chúng tôi, ngoại trừ ảnh hưởng của vấn đề đã nêu, báo cáo tài chính đã
trình bày hợp lý hoạt động của công ty
Ý kiến  Tùy thuộc vào
Khi kiểm toán viên không thể chấp nhận toàn bộ được vì phạm vi kiểm toán bị hạn
chế, số liệu mập mờ nhưng không đến mức ghi ý kiến từ bỏ. Đây là báo cáo chấp
nhận có loại trừ.
Số liệu mập mờ nẩy sinh trong tình trạng không chắc chắn như: vụ kiện chưa được tòa
án phán quyết, khả năng tiếp tục hoạt động không chắc chắn
Ví dụ về báo cáo kiểm toán có yếu tố tùy thuộc:
theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên
các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng
như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc
tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và
các quy định pháp lý có liên quan tùy thuộc vào:
-

Khoản doanh thu XX VNĐ được chấp nhận;

-

Khoản chi XY VNĐ được Hội đồng quản trị thông qua.

Ý kiến chấp nhận từng phần được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng
không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, và những phần không chấp nhận do

không đồng ý với Giám đốc hay do công việc kiểm toán bị giới hạn, là quan trọng
nhưng không liên quan tới một số lượng lớn các khoản mục tới mức có thể dẫn đến ý
kiến từ chối, hoặc ý kiến không chấp nhận. ý kiến chấp nhận từng phần còn được thể
hiện bởi thuật ngữ ngoại trừ ảnh hưởng của các vấn đề không được chấp nhận, bằng
mẫu câu :  Ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) của những vấn đề nêu trên, báo cáo
tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các khiá cạnh trọng yếu
1.3.3 Ý kiến từ chối (hoặc không thể đưa ra ý kiến)
Ý kiến từ chối ( hoặc không thể đưa ra ý kiến) được đưa ra trong trường hợp hậu quả
của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc thiếu thông tin liên quan đến
một số lượng lớn các khản mục tới mức mà kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ
và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về báo cáo tài chính, bằng
mẫu câu: Theo ý kiến của chúng tôi, vì các lý do nêu trên, chúng tôi không thể đưa ra
ý kiến về báo cáo tài chính
1.3.4 Ý kiến không chấp nhận ( hoặc ý kiến trái ngược)
Ý kiến không chấp nhận ( hoặc ý kiến trái ngược) được đưa ra trong trường hợp các
vấn đề không thống nhất với giám đốc là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng
lớn các khoản mục đến mức độ mà kiểm toán viên cho rằng ý kiến chấp nhận từng
phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của báo cáo tài chính
bằng mẫu câu : Theo ý kiến của chúng tôi, vì ảnh hưởng trọng yếu của những vấn đề
nêu trên, báo cáo tài chính phản ánh không trung thực và không hợp lý trên các khía
cạnh trọng yếu
Mỗi khi kiểm toán viên đưa ra ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần (ý kiến
chấp nhận từng phần, ý kiến từ chối, hoặc ý kiến không chấp nhận) thì phải mô tả rõ
ràng trong báo cáo kiểm toán tất cả những lý do chủ yếu dẫn đến ý kiến đó và định
lượng, nếu được, những ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Thông thường, các thông tin
này được ghi trong một đoạn riêng nằm trước đoạn đưa ra ý kiến của kiểm toán viên,
có thể tham chiếu đến một đoạn thuyết minh chi tiết hơn trong báo cáo tài chính (nếu
có)
Những tình huống dẫn đến ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần.
Kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong trường hợp xảy ra
một trong các tình huống có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, như:

-

Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn

-

Không nhất trí với giám đốc đơn vị được kiểm toán về việc lựa chọn và áp dụng
chuẩn mực và chế độ kế toán, hoặc sự không phù hợp của các thông tin ghi
trong báo cáo tài chính hoặc phần thuyết minh báo cáo tài chính

Các tình huống nêu trên có thể dẫn đến ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến từ chối,
hoặc ý kiến không chấp nhận
Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn:
Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn đôi khi là do khách hàng áp đặt ( ví dụ:
trường hợp các điều khoản của hợp đồng kiểm toán thỏa thuận rằng kiểm toán viên
không được thực hiện một số thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên cho là cần thiết).
Tuy nhiên nếu kiểm toán viên cho rằng giới hạn này lớn đến mức có thể dẫn đến ý
kiến từ chối thì hợp đồng bị giới hạn này sẽ không được là hợp đồng kiểm toán, trừ khi
kiểm toán viên bị bắt buộc về mặt pháp luật. trường hợp hợp đồng kiểm toán trái với
nghiã vụ pháp lý của mình thì kiểm toán viên nên từ chối.
Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn có thể do hoàn cảnh thực tế ( ví dụ: kế hoạch
kiểm toán không cho phép kiểm toán viên tham gia kiểm kê hàng tồn kho). Giới hạn
cũng có thể do các tài liệu kế toán không đầy đủ, hoặc là do kiểm toán viên không thể
thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết. Trong trường hợp này, kiểm toán viên phải
cố gắng thực hiện các thủ tục kiểm toán thay thế để có thể thu thập đầy đủ bằng chứng
thích hợp để làm cơ sở cho ý kiến chấp nhận toàn phần.
Trường hợp do giới hạn phạm vi công việc kiểm toán dẫn đến ý kiến chấp nhận từng
phần hoặc ý kiến từ chối, thì báo cáo kiểm toán phải mô tả các giới hạn này và những
điều chỉnh liên quan đến báo cáo tài chính, nếu không có sự giới hạn này.
Ví dụ về phạm vi kiểm toán bị giới hạn:
chúng tôi đã không thể tham gia kiểm kê hàng tồn kho vào ngày 31/12/X vì tại
thời điểm đó chúng tôi chưa được bổ nhiệm làm kiểm toán. Với những tài liệu hiện có
ở đơn vị, chúng tôi cũng không thể kiểm tra được tính đúng đắn của số lượng hàng tồn
kho tại thời điểm trên bằng các thủ tục kiểm toán khác.
Theo ý kiến chúng tôi, ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) đến báo cáo tài chính vì lý
do nêu trên, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh
trọng yếu

Hoặc :
do những hạn chế từ phía đơn vị mà chúng tôi đã khong kiêm tra được toàn bộ doanh
thu, cũng không nhận được đủ các bản xác nhận nợ phải thu từ khách hàng, và vì tính
trọng yếu của các sự kiện này, chúng tôi từ chối đưa ra ý kiến của mình về báo cáo tài
chính của đơn vị
Không nhất trí với đơn vị được kiểm toán
Trường hợp kiểm toán viên không nhất trí với giám đốc một số vấn đề, như việc lựa
chọn và áp dụng chuẩn mực và chế độ kế toán, hay sự không phù hợp của các thông
tin ghi trong báo cáo tài chính hoặc phần thuyết minh báo cáo tài chính.
Nếu những điểm không nhất trí với giam đốc là trọng yếu đối với báo cáo tài chính, thì
kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến không chấp nhận.
Ví dụ về không nhất trí với giám đốc:
như đã nêu trong phần thuyết minh X của báo cáo tài chính, đơn vị đã không tính
khấu hao tài sản cố định, trong khi tài sản cố định này đã thực sự được sử dụng trên 6
tháng, với mức khấu hao đangs lẽ phải tính là XXX VNĐ. Do vậy, chi phí kinh doanh
đã bị thiếu và giá trị thuần của tài sản đã cao hơn thực tế với giá trị tương đương XXX
VNĐ, làm cho lãi tăng giả tạo XXX VNĐ.
Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ ảnh hưởng (nếu có) đến báo cáo tài chính của sự
kiện trên, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng
yếu
Hoặc:
ngày 25/3/X, công ty đã cho vay một khoản tiền lớn là XXX VNĐ, đến ngày
31/12/X vẫn chưa làm xong thủ tục xác nhận nợ. điều đó cần thiết phải ghi rõ trong
phần thuyết minh báo cáo tài chính
Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ ảnh hưởng (nếu có) của việc bỏ sót phần thuyết
minh nói trên, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh
trọng yếu
Hoặc :
trong báo cáo tài chính, giá trị TSCĐ là XXX VNĐ; khoản vay công ty B là XY
VNĐ đã không phản ánh trong sổ kế toán và không có chứng từ kế toán xác minh

Theo ý kiến của chúng tôi, vì ảnh hưởng trọng yếu của những vấn đề nói trên, báo cáo
tài chính đã phản ánh không trung thực và không hợp lý trên các khía cạnh trọng
yếu
2. Phương pháp phân tích đánh giá tổng quát:
2.1 khái niệm ,tác dụng:
2.1.1 Khái niệm:
-Phân tích đánh giá tổng quát là việc xem xét số liệu trên BCTC thong qua mối quan
hệ và những tỷ lệ giữa các chỉ tiêu trên BCTC.
-Phương pháp này giúp KTV khai thác bằng chứng kiểm toán nhanh chóng thong qua
việc xác định những sai lệch về thong tin,những tính chất bình thường trên BCTC, để
KTV xác định mục tiêu, phạm vi, qui mô, khối lượng công việc cần kiểm toán, từ đó
có thể đi sâu nghiên cứu, kiểm toán những vấn đề mà KTV cho là cần thiết.
2.1.2 Tác dụng:
Phương pháp này có tác dụng cho cả ba giai đoạn của quá trình kiểm toán , đó là giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán;giai đoạn thực hiện kiểm toán và giai đoạn kết thúc kiểm
toán.
+Đối với giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: Trong giai đoạn này, phương pháp phân
tích đánh giá tổng quát giúp KTV nhìn nhận doanh nghiệp một cách toàn diện, nhanh
chóng xác định được tính chất bất bình thường, xác định được phạm vi kiểm tra, nội
dung cần đi sâu kiểm toán, xác định đựoc những vấn đề có khả năng sai sót trọng yếu;
đồng thời giúp KTV xác định đựơc nội dung , thời gian, phạm vi sử dụng phương pháp
kiểm toán khác,qua đó lập được kế hoạch chi tiết với những nội dung, phạm vi cần
thiết,thời gian biên chế và chi phí hợp lý.
Trong quá trình phân tích ở giai đoạn này,KTV có thể sử dụng cả thong tin tài chính
và phi tài chính(như diện tích kho tang,số lượng lao động,năng suất bình quân)
+Giai đoạn thực hiện kiểm toán: giai đoạn này, phân tích được coi như một phương
pháp kiểm tra cơ bản nhằm thu thập bằng chứng có liên quan đến số dư tài khoản hoặc
một loại nghiệp vụ nào đó.Các bằng chứng về cơ sở dẫn liệu chứng minh cho các
khoản mục trong BCTC có thể thu được khi tiến hành thử nghiệm chi tiết các nghiệp
vụ số dư hoặc phân tích hay kết hợp cả hai phương pháp phân tích và thử nghiệm chi
tiết nghiệp vụ và số dư tài khoản.

Khi sử dụng phương pháp phân tích trong thực hành kiểm toán,KTV cần chú ý đến
mấy vấn đề sau:
Mục đích phương pháp phân tích và mức độ KTV có thể tin cậy vào phương
pháp phân tích.
Tính hữu dụng, hiệu quả của các thong tin tài chính và phi tài chính dùng để
phân tích.
Tính so sánh của các thong tin hiện có,kể cả độ tin cậy của nó
Kinh nghiệm kiểm toán kỳ trước và tính hiệu lực của hệ thống KSNB trong
doanh nghiệp.Nếu hệ thống KSNB yếu, không nên áp dụng phương pháp phân
tích để đưa ra kết luận.
+ Giai đoạn kết thúc một cuộc kiểm toán: ở giai đoạn này,việc phân tích đành giá tổng
quát có vai trò rất quan trọng đối với KTV.Khi đã kiểm toán và có kết luận về từng bộ
phận cấu thành BCTC,mà đặc biệt kiểm toán hiện đại ngày nay tiến hành trên cơ sỏ
mẫu chọn trong kiểm toán. Để có mức thoả mãn trong kiểm toán càng cao và ta ưg
them độ tin cậy cho KTV thì cần phải một lần nữa sử dụng phương pháp phân tích
đánh giá tổng quát về những thong tin cần kiểm toán và bằng chứng thu thập được để
củng cố them cho các bằng chứng và kết luận của KTV,kể cả việc thử lại khả năng tiếp
tục hoạt động của doanh nghiệp trước khi KTV ký vào báo cáo kiểm toán.
2.2 Kỹ thuật phân tích:
Nội dung phân tích đánh giá tổng quát bao gồm:
Phân tích xu hướng
Phân tích tỷ suất

Phân tích xu hướng là phương pháp so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu.Kỹ
thuật so sánh trong phân tích xu hướng thường sử dụng:
-So sánh số liệu thực tế kỳ này với kỳ trước.
-So sánh số liệu thực tế với kế hoạch, định mức, dự toán
-So sánh số liệu thực tế của doanh nghiệp với số liệu bình quân của ngành hoặc số
liệu dự kiến của KTV.
-So sánh số liệu thực tế doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác cùng quy mô,cùng
lãnh thổ,cùng nghành nghề,cùng loại hình SXKD.
Ví dụ: giá thành thực tế gấp hai lần giá thành kế hoạch=> đây là một biến động
không bình thường vì vậy KTV nghi ngờ có thể tồn tại các gian lận,sai sót.

Phương pháp này giúp KTV thấy được chiều hướng biến động của từng chỉ tiêu.Qua
đó, giúp KTV định hướng được nội dung kiểm toán và những vấn đề cơ bản cần đi
sâu.
Ưu điểm : nhanh chóng, đơn giản.
Nhựoc điểm : không thể hiện được mối quan hệ giữa các chỉ tiêu (không so sánh
được các chỉ tiêu khác nhau). Để khắc phục hạn chế này,người ta sử dụng kỹ thuật
phân tích tỷ suất.

Phân tích tỷ suất:
Phương pháp này dựa vào các mối quan hệ,những tỷ lệ tương quan giữa các chỉ
tiêu,các khoản mục khác nhau để phân tích(so sánh), đánh giá.
Tuỳ điều kiện cụ thể,tuỳ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp mà KTV
có thể tiến hành một số hoặc dùng tất cảc các tỷ suất sau:
A.Nhóm tỷ suất khả năng thanh toán:
a.1 Tỷ suất khả năng thanh toán hiện thời:
Tỷ suất khả năng thanh = Tổng tài sản lưu động
toán hiện thời
Tổng số nợ ngắn hạn
Ý nghĩa: tỷ suất này nói lên khả năng thanh toán trong hiện tại của doanh nghiệp,
đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn và đặc biệt quan trọng với các bên đối tác cho
vay hoặc cho thanh toán chậm.Chỉ tiêu này đánh giá khả năng thanh toán các nghĩa vụ
tài chính của công ty.
Thông thường khả năng thanh toán có biến động do:
-Sự phát triển,mở rộng nhanh chóng của hoạt động SXKD.
-Có vấn đề trong việc thu nợ
-Sự thay đổi trong chính sách quản lý đặc biệt các chính sách có lien quan đến thời
hạn thanh toán và số dư HTK.
-Có sự lẫn lộn trong phân loại các khoản công nợ ngắn hạn và dài hạn.
-Có sai sót về tính đúng kỳ trong số dư cuối năm.
Để phân tích và nhận biết rủi ro từ việc khả năng thanh toán hiện thời có sự biến
động,có thể xem xét them các chỉ tiêu khác như khả năng thanh toán nhanh,số ngày
phải thu,vòng quay HTk ,vòng quay vốn kinh doanh.
Tỷ suất này =1 : có nghĩa TS lưu động vừa đủ thanh toán nợ ngắn hạn
=2 : có nghĩa đảm bảo vốn vừa thanh toán đủ nợ ngắn hạn,vừa tiếp
tục hoạt động được
>2 : có nghĩa là dnghiệp có khả năng thanh toán nhưng đầu tư thừa tài
sản lưu động
<2 : có nghĩa là doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhưng đầu tư
thiếu ts lưu động
a.2 Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh:
Tỷ suất khả năng thanh = Vốn bằng tiền + tài sản tương đương tiền

toán nhanh
Tổng số nợ ngắn hạn
Ý nghĩa:nói lên khả năng thanh toán nhanh (tức thời)các khoản công nợ ngắn hạn
bằng tiền và các khoản có thể chuyển hoá ngay bằng tiền.
Tỷ suất này =1 : thoả đáng
>1 :có khả năng thanh toán nhanh
<1 :khó khăn trong thanh toán công nợ ngắn hạn
a.3 Tỷ suất thanh toán lãi vay dài hạn:
Tỷ suất thanh toán lãi = Lãi trước thuế +Lãi vay dài hạn
vay dài hạn
lãi vay dài hạn
Tỷ suất này =1 : dnghiệp không có lợi nhuận
=2 : dnghiệp có lợi nhuận trước thuế bằng lãi vốn vay
>=3 :lợi nhuận trước thuế = hay > 2 lần lãi vốn vay
a.4 Tỷ suất khả năng thanh toán dài hạn:
Tỷ suất khả năng thanh toán =
Tổng tài
sản
dài hạn
Tổng số nợ phải trả(NH+DH)
Ý nghĩa : tỷ suất này không những có ý nghĩa với việc đánh giá khả năng thanh
toán của doanh nghiệp mà còn có tác dụng xem xét khả năng tiếp tục hoạt động của
doanh nghiệp để có nhận xét trong báo cáo kiểm toán.
Tỷ suất này =1 : dnghiệp có khả năng thanh toán
>1 :dnghiệp có khả năng thanh toán,có khả năng tiếp tục hoạt động
<1 : không những doanh nghiệp có khó khăn trong quan hệ thanh
toán mà khả năng giải thể,phá sản đang đến gần với dnghiệp.
=0 :dnghiệp bị phá sản
a.5 Số vòng thu hồi nợ (hệ số thu hồi nợ)
Số vòng thu hồi = doanh thu ròng (thuần) (năm)
nợ
Số dư các khoản phải thu bình quân
Số dư các khoản =Số dư các khoản phải thu đầu năm + Số dư các khoản phải thu
cuối năm
phải thu bình quân

2

Ý nghĩa: số ngày phải thu là chủ tiêu để tính toán số ngày trung bình khoản phải
thu từ lúc phát sinh cho đến khi thu được tiền(số tiền bán hàng tính vào doanh thu
trong một năm được thu về quỹ doanh nghiệp là bao nhiêu lần trong năm).Nếu số vòng
thu hồi càng lớn thù càng chứng tỏ khả năng bán hàng và phương pháp thu hồi công
nợ càng tốt.Khi đó,số ngày(thời gian)của một vòng thu nợ càng giảm.
Số vòng thu hồi nợ càng nhiều hay thời guan thu nợ càng ngắn thì càng có tiền
để chi trả các khoản nợ.
Chỉ tiêu này có thể được so sánh với chính sạc về thanh toán của công ty.

Chỉ tiêu về số ngày phải thu thường biến động bởi:
-Sự thay đổi của môi trường kinh tế nói chung.
-Doanh thu cuối năm tăng giảm đột biến.
- Sự thay đổi về khách hàng.
-Sự thay đổi về điều khoản thanh toán.
-Sự thay đổi về điều khoản ghi nhận.
-Sự thay đổi về điều kiện ghi nhận nợ phải thu khó đòi.
Để phân tích và nhận biết rủi ro từ việc thay đổi số ngày phải thu,cần xem xét sự
thay đổi của các tài khoản như phải thu,phải thu khó đòi,hàng bán trả lại và số dư chi
tiết của từng khách hàng.Bên cạnh đó cũng có thể xem xét sự biến động trong báo cáo
tuổi nợ.
a.6 Số vòng luân chuyển HTK:
Số vòng luân chuyển hàng

=

tồn kho
Thời gian một vòng luân

Giá vốn hàng

bán

Số dư tồn kho bình quân
=

chuyển hàng tồn kho

36 5
số vòng luân chuyển HTK

Chỉ tiêu này thường bị ảnh hưởng bởi các nhân tố sau:
-Sự thay đổi về cơ cấu hàng tồn kho hoặc cơ cấu sản phẩm
-Kiểm kê thừa hoặc thiếu
-Sự thay đổi về quản lý hàng tồn khpo hoặc thủ tục kiểm soát.
-Sự thay đổi về giá hàng tồn kho.
-Sự thay đổi về phương pháp kế toán đối với hàng tồn kho.
-Sự thay đổi về chính sách dự phòng giảm giá hoặc ghi giảm hàng tồn kho.
Để phân tích và nhận biết rủi ro do việc vòng quay hàng tồn kho biến động, có thể xem
xét sự thay đổi của số dư một số tài khoản khác như thành phẩm,sản phẩm dở
dang,nguyên vật liệu,giá vốn hàng bán,và so sánh sự thay đổi của một số chỉ tiêu khác
như số ngày phải trả cà khả năng thanh toán bằng tiền.
B . Nhóm tỷ suất khả năng sinh lời :
b.1 Tỷ suất khả năng sinh lời:
Tỷ suất khả năng sinh lời =

Lợi nhuận

của vốn kinh doanh

Vốn kinh doanh

Tỷ suất khả năng sinh lời =
của tài sản

lãi kinh doanh trước thuế + lãi vốn vay
Tổng giá trị tài sản bình quân

Tổng giá trị tài sản =Tổng giá trị tài sản tồn đầu kỳ+ tổng giá trị tài sản tồn cuối
kỳ
bình quân

2

Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản chỉ ra mối quan hệ giữa lợi nhuận thu được
và tổng mức đầu tư .Chỉ tiêu này cũng phản ánh hiệu quả của công ty trong việc quản
lý tài sản và tạo lợi nhuận.
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động của chỉ tiêu này:
-Sự thay đổi về khả năng sinh lời do môi trường kinh doanh thay đổi.
-Sự thay đổi về lợi nhuận gộp do thay đổi kết cấu sản phẩm,giá bán,giá vốn
-Sự thay đổi về tài sản do thanh lý,mua mới.
-Sự thay đổi trong chính sách kế toán liên quan tới doanh thu,đánh giá tài sản.
Để phân tích và nhận biết rủi ro từ việc chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tài sản thay đổi
cần phải xem xét các tài khoản có liên quan như tài sản vô hình,doanh thuvà có thể
so sánh sự thay đổi đó với các chỉ tiêu khác như vòng quay của tài sản,lãi trên nợ dài
hạn
b.2 Tỷ suất lợi nhuận gộp:
Tỷ suất lợi nhuận gộp = Lợi nhuận gộp * 100%
Doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận gộp là chỉ tiêu đầu tiên để phân tích về khả năng sinh lời.Chỉ tiêu
này cho thấy khả năng của công ty trong việc kiểm soát giá vốn và giá bán.Chỉ tiêu tỷ
suất lợi nhuận gộp có thể cung cấp nhiều thông tin hơn nếu được phân tích theo từng
loại sản phẩm.
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận gộp thường bị ảnh hưởng bởi các nhân tố sau:
-Sự thay đổi về giá.
--Sự thay đổi về cơ cấu hàng bán
-Sự thay đổi về giá vón hàng bán
-Sự thay đổi về số lượng bán nếu chi phí sản xuất chung là cố định và lớn.

Để phân tích và nhận biết rủi ro từ chỉ tiêu lợi nhuận gộp thay đổi,có thể xem xét
thêm sự thay đổi của số dư các tài khoản như nguyên vật liệu,nhân công,chi phí sản
xuất chung
b.3 Tỷ suất lợi nhuận ròng:
Tỷ suất lợi nhuận ròng = Lợi nhuận trước thuế * 100%
(kết quả hoạt động)

Doanh thu

Chỉ tiêu lợi nhuận ròng đánh giá khả năng sinh lời sau khi trừ đi các khoản giá vốn và
chi phí .Chỉ tiêu này có thể được so sánh với chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận gộp để phân tích
ảnh hưởng của chi phí quản lý,chi phí bán hàng tới lợi nhuận.
Bên cạnh các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận gộp,chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
ròng còn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố sau đây:
-Sự thay đổi về kế toán như vốn hóa chi phí
-Sự thay đổi của chi phí bán hàng,chi phí quản lý.
Để phân tích và nhận biết rủi ro từ vieevj chỉ tiêu này thay đổi,có thể xem xét sự thay
đổi của các tài khoản như doanh thu,lãi,các chi phí bán hàng,quản lývà so sánh cùng
với sự thay đổi của các chỉ tiêu khác như lãi trên nợ dài hạn,chi phí bảo trì sửa chữa
trên tổng tài sản cố định,khả năng thanh toán nhanh.
b.4 Tỷ suất hiệu quả kinh doanh:
Tỷ suất hiệu quả

=

kinh doanh

Lãi thuần từ hoạt động kinh doanh = A
Tổng doanh thu bán hàng thuần

Ý nghĩa: một đồng doanh thu bán hàng thuần mang lại bao nhiêu lãi cho doanh nghiệp.
C.Nhóm tỉ suất về cấu trúc tài chính:
c.1 Tỷ suất đầu tư(tỷ suất đầu tư về tài sản cố định và đầu tư dài hạn)
Tỷ suất đầu tư = Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Tổng tài sản
Ý nghĩa : Tỷ suất này đánh giá năng lực hiện có của doanh nghiệp,đánh giá trình độ
trang bị máy móc,thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật . . .
- Tỷ suất này luôn luôn nhỏ hơn 1 và mức độ cao nhất của nó tùy theo doanh
nghiệp hoạt động trong ngành nào, lĩnh vực nào.
- Tỷ suất này ngày càng lớn chứng tỏ vị trí quan trọng của TSCĐ trong tổng số tài
sản hiện có của doanh nghiệp.

C.2 Tỷ suất tự tài trợ (tỷ suất tự tài trợ về tài sản cố định và đầu tư dài hạn)
Tỷ suất tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu
TSCĐ và ĐTDH
Ý nghĩa : Phản ánh khả năng đàu tư tài sản cố định bằng nguồn vốn chủ sở hữu như
thế nào ? NVCSH đã dùng vào TSCĐ và ĐTDH là bao nhiêu?
Nếu doanh nghiệp có khả năng tài chính tốt thì NVCSH phải đủ đầu tư TSCĐ và
ĐTDH để hoạt động. Tỷ suất này càng cao thì tình hình tài chính ngày càng mạnh.
Chú ý : Mặt trái của nó là nếu đầu tư quá nhiều NVCSH vào mua sắm TSCĐ thì bất
lợi vì : TSCĐ chu chuyển chậm . Lợi nhuận thu được chủ yếu là do chu chuyển TSLĐ.
C.3 Tỷ suất khả năng tài trợ( tỷ suất tài trợ)
Tỷ suất khả năng tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu

<_1

Tổng nguồn vốn
Tỷ suất này có mối quan hệ vớ tỷ suất nợ
Tỷ suất nợ = Nợ phải trả
Tổng nguồn vốn
Hoặc
Tỷ suất nợ = 1  Tỷ suấ khả năng tài trợ
Ý nghĩa : Tỷ suất tài trợ nói lên khả năng đầu tư đảm bảo về mặt tài chính và mức độ
độc lập củ doanh nghiệp đối với các chủ nợ , hoặc những khó khăn tài chính mà doanh
nghiệp phải đương đầu
Tỷ suất tài trợ càng lớn chứng tỏ doang nghiệp có nhiều vốn tự có và hoạt động
dựa vào NVCSH không lo lắng đến việc vay và trả nợ
c.4 Tỷ suất nợ trên vốn
Tổng nợ trên nguồn vốn = Nợ ngắn hạn + nợ dài hạn
Nguồn vốn
So sánh chỉ tiêu nợ trên nguồn vốn và vốn tự có trên nguồn vốn dùng để đánh giá
khả năng tự tài trợ của công ty. Nguồn vốn ở đây bao gồm cả lãi lưu trữ.
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động của chỉ tiêu này là :
. Sự thay đổi về cơ cấu tài chính
. Sự thay đổi về chính sách kế toán
. Các giao dịch với nhà đầu tư hoặc chủ nợ
Để phân tích và nhận biết rủi ro từ việc chỉ tiêu nợ trên tổng nguồn vốn thay đổi
cần phải xem xét các tài khoản có liên quan như tài sản , nợ , nguồn vốn  và có thể
so sánh sự thay đổ đó với các chỉ tiêu khác như nợ trên tài sản , lãi trên nợ dài hạn ,
vòng quay vốn kinh doanh . . .

II. Thực trạng
1. Thực trạng áp dụng các loại báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính ở Việt
Nam và trên thế giới.
1.1.Ở Việt Nam
Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ
thống các tổ chức kiểm toán BCTC ở VN, song còn những hạn chế chủ yếu sau:
- Khuôn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm toán BCTC chưa đầy
đủ và đồng bộ: Địa vị pháp lý của KTNN và Tổng KTNN chưa được quy định trong
Hiến pháp như hầu hết các nước trên thế giới, còn tình trạng không tương thích giữa
các quy định về tổ chức và hoạt động KTNN; Chưa có luật về kiểm toán độc lập, hoạt
động của kiểm toán độc lập hiện nay được điều chỉnh bằng Nghị định của Chính phủ
chưa thực sự tạo lập được khuôn khổ pháp lý đủ mạnh cho sự phát triển các doanh
nghiệp kiểm toán độc lập và độ tin cậy của các khách hàng kiểm toán và xử lý rủi ro
trong hoạt động kiểm toán; Các quy định về kiểm toán nội bộ vừa thiếu, vừa không đủ
hiệu lực thúc đẩy sự ra đời và phát triển của hệ thống kiểm toán nội bộ;
- Các phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán BCTC đặc biệt là quy trình,
chuẩn mực, quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán của cả ba phân hệ kiểm toán
mặc dù đã được chú trọng xây dựng và ban hành nhưng còn thiếu đồng bộ đã ảnh
hưởng nhất định đến chất lượng hoạt động kiểm toán. Chưa triển khai được kiểm toán
trong môi trường công nghệ thông tin, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác
kiểm toán còn hạn chế.
- Sự phát triển về tổ chức của cả ba phân hệ kiểm toán chưa đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn. KTNN cho đến nay đã có bước trưởng thành nhanh chóng về tổ chức và
nhân sự nhưng năng lực kiểm toán vẫn chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ và

Video liên quan