Bà triệu thị trinh là ai

Triệu Thị Trinh, mà dân gian gọi là Bà Triệu, hay Triệu Trinh Nương, sinh ngày 02 tháng 10 năm Bính Ngọ [226] tại miền núi Quan Yên, quận Cửu Chân, nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Dân gian truyền lại rằng, từ nhỏ, Triệu Thị Trinh đã tỏ ra là người mạnh mẽ, thông minh, tài sắc khác thường. Năm 17, 18 tuổi,  Triệu Trinh Nương cùng anh là Triệu Quốc Đạt chiêu mộ trai tráng, tập hợp quân sĩ dấy binh khởi nghĩa ở đất Quan Yên, được dân chúng khắp vùng nô nức tham gia. Ngày này, vùng đất này vẫn còn lưu truyền nhiều huyền thoại về nữ anh hùng.

Ông Lê Văn Long, thôn Bồ Điền, xã Định Tiến, huyện Yên Định: Tương truyền lại, hàng năm, vào ngày 21/2 âm lịch, dân làng đều chuẩn bị võng lọng, đồ lễ để dâng lên bà Triệu. Có rất nhiều câu chuyện được lưu truyền về sự linh thiêng của bà.

Từ miền đất Quan Yên, Bà Triệu cùng nghĩa quân vượt sông Chu tiến về ngàn Nưa, sau đó vượt sông Mã ra Bồ Điền, nay thuộc xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc.  Từ căn cứ Phú Điền - nghĩa quân nhanh chóng thu phục được các thành, ấp ở quận Cửu Chân và một số vùng của quận Giao Chỉ. Cuộc khởi nghĩa lan rộng như vũ bão và làm “ Chấn động Giao Châu” lúc bấy giờ.

Năm 248, Ngô Triều phải phái Lục Dận đem theo tám nghìn quân tinh nhuệ để đàn áp cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu. Do lực lượng nghĩa quân còn non trẻ, không đủ sức chống lại một đạo quân lớn hơn mình gấp bội, trong một trận huyết chiến với quân thù, trước thế mạnh và mưu kế hiểm độc, đê hèn của giặc, bà Triệu đã tuẫn tiết ở núi Tùng, xã Phú Điền, huyện Hậu Lộc vào ngày 22 tháng 2 năm Mậu Thìn [năm 248] lúc bà 22 tuổi xuân.

Đền thờ Bà Triệu.

Chí hướng giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ của giặc phương Bắc chưa thành, nhưng cuộc khởi nghĩa Bà Triệu là một mốc son chói lọi trên chặng đường chống ngoại xâm của dân tộc. Hình ảnh một nữ tướng tài ba lẫm liệt trong bộ áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi trắng ra trận với câu nói đầy khí phách mãi mãi không phai mờ trong tâm khảm của người Việt.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Trung tâm bảo tồn di sản văn hóa Thanh Hóa: Theo sử sách, Cuộc khởi nghĩa bà Triệu làm cho toàn thể Giao Châu náo động. Như thế để thấy rằng, quy mô, tầm vóc của cuộc khởi nghĩa Bà Triệu vang xa. Cho đến nay, khu di tích bà Triệu được trải dài trong một không gian rộng để thấy rằng sự tưởng nhớ của nhân dân, quá trình bảo vệ, tôn tạo, phát huy giá trị của di tích.

Ngày nay, phát huy truyền thống trên quê hương bà Triệu anh hùng, thực hiện phong trào thi đua yêu nước, cán bộ, hội viên phụ nữ các dân tộc trong tỉnh luôn nỗ lực lao động, sáng tạo, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, xứng đáng là cháu con của anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh./.

Mai Ngọc - Xuân Sơn

Bà Triệu, còn được gọi là Triệu Ẩu , Triệu Trinh Nương , Triệu Thị Trinh , Triệu Quốc Trinh [225–248], là một trong những vị anh hùng dân tộc trong lịch sử ViệtNam.

Sử gia Ngô Sĩ Liên ở thế kỷ 15 viết:

Triệu Ẩu [tức Bà Triệu] là người con gái ở quận Cửu Chân, họp quân trong núi, đánh phá thành ấp, các bộ đều theo như bóng theo hình, dễ hơn trở bàn tay. Tuy chưa chiếm giữ được đất Lĩnh Biểu như việc cũ của Trưng Vương, nhưng cũng là bậc hùng tài trong nữ giới.[1]

Sử nhà Nguyễn ở thế kỷ 19 cũng đã chép:

Con gái nước ta có nhiều người hùng dũng lạ thường. Bà Triệu Ẩu thật xứng đáng là người sánh vai được với Hai Bà Trưng. Xem thế thì há có phải chỉ Trung Quốc mới có đàn bà danh tiếng như chuyện Thành Phu Nhân và Nương Tử Quân mà Bắc sử đã chép đâu.[2]

Bối cảnh

Năm 226, Sĩ Nhiếp mất, vua Đông Ngô là Tôn Quyền bèn chia đất từ Hợp Phố về Bắc thuộc Quảng Châu dùng Lữ Đại làm thứ sử; từ Hợp Phố về Nam là Giao Châu, sai Đại Lương làm thái thú, và sai Trần Thì làm thái thú quận Giao Chỉ. Lúc bấy giờ, con của Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy tự nối ngôi và xưng là thái thú, liền đem binh chống lại.

Thứ sử Lữ Đại bèn xua quân sang đánh dẹp. Do nghe lời chiêu dụ, Sỹ Huy cùng năm anh em ra hàng. Lữ Đại giết chết Huy, còn mấy anh em thì đem về đất Ngô làm tội. Dư đảng của Sỹ Huy tiếp tục chống lại, khiến Lữ Đại mang quân vào Cửu Chân giết hại một lúc hàng vạn người.

Cuộc đời & sự nghiệp

Bà Triệu sinh năm Bính Ngọ [226][3] tại miền núi Quân Yên [hay Quan Yên], quận Cửu Chân [nay thuộc làng Quan Yên [hay còn gọi là Yên Thôn], xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa].

Thủa nhỏ cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng[4] ở Quan Yên.

Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu [vợ ông Đạt] ác nghiệt [5], bà giết đi rồi vào ở trong núi Nưa [nay thuộc xã Tân Ninh huyện Triệu Sơn, Thanh Hoá], chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ.

Năm Mậu Thìn [248], thấy quan lại nhà Đông Ngô [Trung Quốc] tàn ác, dân gian khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Lúc đầu, anh bà không tán thành nhưng sau chịu nghe theo ý kiến của em.

Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm quận lỵ Tư Phố[6] nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là Tiết Kính Hàn. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.

Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời.[7] Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi[8] và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân.[9]

Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh[10], vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận [cháu của Lục Tốn], sang làm thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu uý, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.

Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền [11]. Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng.

Theo Trần Trọng Kim trong ViệtNamsử lược, bà chống đỡ với quân Đông Ngô được năm sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng [xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa] vào năm Mậu Thìn [248], lúc mới 23 tuổi.

Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến 265.[12]

Câu nói nổi tiếng

Năm 19 tuổi, đáp lời người hỏi bà về việc chồng con, Bà Triệu nói:

“          Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người![13] ”

Tưởng nhớ

Đền thờ Bà Triệu ở Hậu Lộc Thanh Hóa.

Về sau vua LýNamĐế [tức Lý Bí] khen Bà Triệu là người trung dũng sai lập miếu thờ, phong là: "Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân".

Hiện nay, nơi núi Tùng [xã Triệu Lộc], vẫn còn di tích lăng mộ của bà. Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai ngay sát quốc lộ 1A [đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, cách thành phố Thanh Hóa 18 km về phía Bắc][14] là đền thờ bà. Hằng năm, vào ngày 21 tháng 2 [âm lịch], người dân trong vùng vẫn tổ chức tế giỗ bà. Tại nhiều tỉnh thành trong nước ViệtNam, tên bà cũng đã được dùng để đặt tên cho nhiều trường học và đường phố; riêng tại Hà Nội, có một con đường mang tên phố Bà Triệu.

Giai thoại

Vùng Bồ Điền, Triệu Lộc ngày nay, hiện còn nhiều di tích và truyền thuyết liên quan đến Bà Triệu và cuộc khởi nghĩa của bà. Trích giới thiệu hai truyện:

Thu phục voi trắng một ngà

Vùng núi Quân Yên lúc bấy giờ có một con voi trắng một ngà rất hung dữ hay đến phá hoại mùa màng, mọi người đều kinh sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy [vùng sông Cầu Chầy ngày xưa hãy còn lầy lội] rồi dũng cảm nhảy lên đầu voi và đã khuất phục được nó. Con voi trắng sau này được bà dùng để cưỡi mỗi khi ra trận.

Giả đá biết nói

Những ngày đầu tụ nghĩa, Bà Triệu đã ngầm cho đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao giả lời thần nhân mách bảo:

Có bà Triệu tướng,

Vâng lệnh trời ta.

Trị voi một ngà,

Dựng cờ mở nước.

Lệnh truyền sau trước,

Theo gót Bà Vương.

Thơ ca, câu đối

Trong ĐạiNamquốc sử diễn ca, có đoạn Bà Triệu Ẩu đánh Ngô, khái quát rất sinh động:

Binh qua trải bấy nhiêu ngày.

Mới sai Lục Dận sang thay phiên thần.

Anh hùng chán mặt phong trần,

Nữ nhi lại cũng có lần cung đao.

Cửu chân có ả Triệu kiều,

Vú dài ba thước tài cao muôn người.

Gặp cơn thảo muội cơ trời,

Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang.

Đầu voi phất ngọn cờ vàng,

Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha.

Chông gai một cuộc quan hà ,

Dù khi chiến tử còn là hiển linh.

Tương truyền quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên có câu:

Hoành qua đương hổ dị,

Đối diện Bà vương nan.

Dịch:

Múa giáo đánh cọp dễ,

Đối mặt Vua Bà thì thực khó.

Trong dân gian hiện cũng còn truyền tụng nhiều câu thơ ca và câu đối liên quan đến bà như sau:

Ru con con ngủ cho lành,

Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi.

Muốn coi, lên núi mà coi,

Có bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng.

Túi gấm cho lẫn túi hồng

Têm trầu cánh kiếm cho chồng ra quân.

Tùng Sơn nắng quyện mây trời,

Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.

Cửu Chân trăm trận gan hơn sắt,

Lục Dận Nhiều phen mắt đã vàng.

Trông bành voi, Ngô cũng lắc đầu, sợ uy Lệ Hải Bà Vương, những muốn bon chân về Bắc quốc;

Ngồi yên ngựa khách đi hoài cổ, tưởng sự Lạc Hồng nữ tướng, có chăng thẹn mặt đấng nam nhi."

[Khuyết danh]

Một đầu voi chống chọi với quân thù, sau Trưng nữ rạng danh bà Lệ Hải;

Ba thước vú tử sinh cùng đất nước, cho Ngô hoàng biết mặt gái Giao Châu.

Chí sĩ Dương Bá Trạc

Ngoài ra, trong Hồng Đức quốc âm thi tập, và trong các tập thơ của các danh sĩ như Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Đôn Dự...đều có thơ khen ngợi Bà Triệu.

Vấn đề liên quan

Đoạn cuối cuộc khởi nghĩa

Lâu nay sử sách đều biên chép cuộc khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, và bà đã tự vẫn năm 248. Tuy nhiên, GS. Lê Mạnh Thát đã dẫn ThiênNamngữ lục và Ngụy chí để kết luận rằng Bà Triệu đã không thua bởi tay Lục Dận, trái lại đã đánh bại viên tướng này. Lục Dận chỉ chiếm được vùng đất nay thuộc Quảng Tây. Và Bà Triệu đã giữ được độc lập cho đất nước đến khi Đặng Tuân được Tôn Hựu sai sang đánh Giao Chỉ vào năm 257.[15] Tuy nhiên, ý kiến mới mẻ này còn phải được sự đồng thuận của nhiều người trong giới.

[sửa]Tên gọi

Những bộ sử cổ chỉ gọi bà là Triệu nữ [cô gái Triệu], Triệu Ẩu [sẽ nói sau]. Những tên gọi Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh, Triệu Quốc Trinh... theo Văn Lang thì rõ ràng là mới đặt gần đây. Tác giả cho biết vấn đề tên gọi này [cũng như tên gọi của Bà Trưng] thuộc phạm trù ngôn ngữ Việt cổ và cách đặt tên người ở thời gian đầu Công nguyên, còn đang được nghiên cứu [tr. 33].

Ngoài ra, Bà Triệu còn được người đời tôn là Nhụy Kiều tướng quân [vị tướng yêu kiều] và Lệ Hải bà vương [vua bà ở vùng biển mỹ lệ].[16]

Riêng cái tên Triệu Ẩu [趙嫗], thấy xuất hiện lần đầu trong Nam Việt chí, Giao Châu ký [thế kỷ 4, 5] rồi đến Thái bình hoàn vũ [thế kỷ 10] chua dưới mục Quân Ninh [tức Quân Yên cũ].[17]

Trước đây, Hồng Đức quốc âm thi tập, Đại Việt sử ký toàn thư, Thanh Hoá kỉ thắng, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục...đều gọi bà là Triệu Ẩu . Sau, sử gia Trần Trọng Kim khi cho tái bản ViệtNamsử lược đã không giải thích mà chỉ ghi chú rằng: Bà Triệu, các kỳ xuất bản trước để là Triệu Ẩu. Nay xét ra nên để là Triệu Thị Chinh [tr. 52].

Kể từ đó có nhiều lý giải khác nhau, như:

Sử gia Phạm Văn Sơn: Vì người Tàu căm giận nên đặt tên là Triệu Ẩu [Ẩu có nghĩa là mụ] để tỏ ý khinh mạn [tr. 205].

Nhóm tác giả sách Lịch sử ViệtNam[trước thế kỷ 10, quyển 1, tập 1]: Sách sử Trung Quốc gọi bà là Triệu Ẩu với nghĩa xấu [người vú em] [tr. 109].

Một số người lại giải thích “ẩu” nghĩa là con mụ họ Triệu, là bà già, hoặc là “nữ tù trưởng Triệu”.

Hình tượng vú dài

Sách Giao Chỉ chí chép:

Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần.[18]

Sách Những trang sử vẻ vang... giải thích: Phụ nữ khổng lồ, vú dài… là huyền thoại về bà Mẹ-Đất [terre-Mère, Déesse-Mère]. Sau hình tượng đó được khoát cho bất kỳ một phụ nữ hiệt kiệt nào [tr. 129]. Các tác giả sách Lịch sử Việt Nam [tập I] cũng đều cho rằng huyền thoại về một người phụ nữ có "vú dài ba thước" vốn rất phổ biến ở phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện "Tẩy thị phu nhân", "Tiểu quốc phu nhân" đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước...Có thể, vì bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho bà [tr. 345].

Video liên quan

Chủ Đề